1.1. Đ ặt vấn đề
Bước sang thế kỷ 21, đất nước ta chuyển sang nền kinh tế tự do và mang tính cạnh tranh. Cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế, ngành ngân hàng cũng đã và đang góp phần không nhỏ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Ngân hàng là một ngành kinh tế, công cụ của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế, ngành ngân hàng đang ngày một khẳng định vị thế của mình đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Cùng với xu hướng chung nền kinh tế, ngành ngân hàng đang không ngừng phát triển cả về quy mô, chất lượng, số lượng và hình thức đầu tư để từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. Trong sự thay đổi chung của nền kinh tế, ngành ngân hàng đã và đang có những bước phát triển hết sức nhanh chóng, đóng góp một phần không nhỏ vào tốc độ phát triển chung của kinh tế nước ta.
Cùng với việc tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế luôn duy trì ở mức khá cao thì nước ta cũng có nhu cầu về một lượng vốn lớn với mục đích mở rộng sản xuất, phát triển hạ tầng kỹ thuật. Thông qua các nghiệp vụ hoạt động của mình, ngành ngân hàng đã và đang thực hiện khá tốt nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế bằng cách thu hút lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư, biến lượng vốn này từ nguồn vốn “chết” trở thành vốn hoạt động thôn qua hoạt động cho vay các đối tượng có nhu cầu về vốn, qua đó kích thích luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh theo định hướng của nhà nước.
Hoạt động ngân hàng còn giúp cho việc giảm bớt đói nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động hỗ trợ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Mang lại lợi ích cho đất nước.
Để đạt được những thành công đó đòi hỏi người quản lý ngân hàng phải nắm chắc thông tin thị trường, tình hình và nhu cầu vốn của khách hàng, về các ngân hàng đang cạnh tranh, về năng lực của ngân hàng mình. Từ đó người quản lý ngân hàng mới xử lý thông tin và đưa ra các quyết định, các đối sách cụ thể. Đối với các thông tin kinh tế thì công tác tín dụng là một công cụ hữu hiệu trong việc phát triển và mở rộng đồng thời đây chính là nguồn thông tin số liệu tin cậy để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý.
Đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hòa Lạc (NHNo & PTNT Hoà Lạc) thì hoạt động cho vay chính là hoạt động chủ yếu mang lại nguồn thu cho ngân hàng và là nguồn vốn cho các tổ chức sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện Thạch Thất. Còn các phương thức cho vay chinh là công cụ hữu hiệu để giúp ngân hàng đạt được mục đích của mình.
Với bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay thì việc áp dụng phương thức cho vay nào để cho việc thực hiên cho vay có hiệu quả đối với các đối tượng vay khác nhau cũng là một vấn đề khó khăn, nó thể hiện được sự am hiểu của ngân hàng về tình hình kinh tế của địa phương cũng như đối với khách hàng. Việc sử dụng phương thức cho vay hợp lý sẽ giúp ngân hàng có biện pháp quản lý, kiểm soát và phân phối vốn hợp lý, hiệu quả. Nhất là trong thời buổi kinh tế luôn thay đổi như hiện nay nó sẽ giúp ngân hàng ngày càng củng cố được tài chính và vị thế của mình
Xuất phát từ những vấn đề trên, qua một thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Hoà Lạc. Được sự giúp đỡ của ban giám đốc và các cán bộ của phòng tín dụng nên em đã nghiên cứu đề tài : “Tìm hiểu các phương thức cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hoà Lạc- Hà Nội”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Tổng quát hóa về các phương thức cho vay tại ngân hàng.
Tìm hiểu các phương thức cho vay tại ngân hàng.
Góp phần đề xuất ý kiến về các phương thức cho vay tại ngân hàng.
• Câu hỏi nghiên cứu
Những vấn đề cơ bản về phương thức cho vay của ngân hàng là gì?
Ngân hàng áp dụng các phương thức cho vay khác nhau sẽ tác động đến người vay như thế nào?
Ưu nhược điểm của các phương thức cho vay là gì?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các phương thức cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hòa Lạc - Hà Nội sử dụng trong năm 2009.
74 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3037 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu các phương thức cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hòa Lạc – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Đ ặt vấn đề
Bước sang thế kỷ 21, đất nước ta chuyển sang nền kinh tế tự do và mang tính cạnh tranh. Cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế, ngành ngân hàng cũng đã và đang góp phần không nhỏ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Ngân hàng là một ngành kinh tế, công cụ của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế, ngành ngân hàng đang ngày một khẳng định vị thế của mình đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Cùng với xu hướng chung nền kinh tế, ngành ngân hàng đang không ngừng phát triển cả về quy mô, chất lượng, số lượng và hình thức đầu tư để từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. Trong sự thay đổi chung của nền kinh tế, ngành ngân hàng đã và đang có những bước phát triển hết sức nhanh chóng, đóng góp một phần không nhỏ vào tốc độ phát triển chung của kinh tế nước ta.
Cùng với việc tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế luôn duy trì ở mức khá cao thì nước ta cũng có nhu cầu về một lượng vốn lớn với mục đích mở rộng sản xuất, phát triển hạ tầng kỹ thuật. Thông qua các nghiệp vụ hoạt động của mình, ngành ngân hàng đã và đang thực hiện khá tốt nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế bằng cách thu hút lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư, biến lượng vốn này từ nguồn vốn “chết” trở thành vốn hoạt động thôn qua hoạt động cho vay các đối tượng có nhu cầu về vốn, qua đó kích thích luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh theo định hướng của nhà nước.
Hoạt động ngân hàng còn giúp cho việc giảm bớt đói nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động hỗ trợ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Mang lại lợi ích cho đất nước.
Để đạt được những thành công đó đòi hỏi người quản lý ngân hàng phải nắm chắc thông tin thị trường, tình hình và nhu cầu vốn của khách hàng, về các ngân hàng đang cạnh tranh, về năng lực của ngân hàng mình. Từ đó người quản lý ngân hàng mới xử lý thông tin và đưa ra các quyết định, các đối sách cụ thể. Đối với các thông tin kinh tế thì công tác tín dụng là một công cụ hữu hiệu trong việc phát triển và mở rộng đồng thời đây chính là nguồn thông tin số liệu tin cậy để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý.
Đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hòa Lạc (NHNo & PTNT Hoà Lạc) thì hoạt động cho vay chính là hoạt động chủ yếu mang lại nguồn thu cho ngân hàng và là nguồn vốn cho các tổ chức sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện Thạch Thất. Còn các phương thức cho vay chinh là công cụ hữu hiệu để giúp ngân hàng đạt được mục đích của mình.
Với bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay thì việc áp dụng phương thức cho vay nào để cho việc thực hiên cho vay có hiệu quả đối với các đối tượng vay khác nhau cũng là một vấn đề khó khăn, nó thể hiện được sự am hiểu của ngân hàng về tình hình kinh tế của địa phương cũng như đối với khách hàng. Việc sử dụng phương thức cho vay hợp lý sẽ giúp ngân hàng có biện pháp quản lý, kiểm soát và phân phối vốn hợp lý, hiệu quả. Nhất là trong thời buổi kinh tế luôn thay đổi như hiện nay nó sẽ giúp ngân hàng ngày càng củng cố được tài chính và vị thế của mình
Xuất phát từ những vấn đề trên, qua một thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Hoà Lạc. Được sự giúp đỡ của ban giám đốc và các cán bộ của phòng tín dụng nên em đã nghiên cứu đề tài : “Tìm hiểu các phương thức cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hoà Lạc- Hà Nội”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Tổng quát hóa về các phương thức cho vay tại ngân hàng.
Tìm hiểu các phương thức cho vay tại ngân hàng.
Góp phần đề xuất ý kiến về các phương thức cho vay tại ngân hàng.
• Câu hỏi nghiên cứu
Những vấn đề cơ bản về phương thức cho vay của ngân hàng là gì?
Ngân hàng áp dụng các phương thức cho vay khác nhau sẽ tác động đến người vay như thế nào?
Ưu nhược điểm của các phương thức cho vay là gì?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các phương thức cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hòa Lạc - Hà Nội sử dụng trong năm 2009.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: đề tài nghiên cứu và tìm hiểu các phương thức cho vay được áp dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hòa Lạc.
Phạm vi thời gian: tìm hiểu các phương thức cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hòa Lạc - Hà Nội trong 3 năm 2007-2009.
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan tài liệu
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
* Khái niệm
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương, chủ thể tham gia nói riêng. Với vai trò quan trọng như vậy, nhưng quan niệm như thế nào về một Ngân hàng, và sự phân biệt nó với các tổ chức phi Ngân hàng không phải là điều đơn giản. Rõ ràng, có thể định nghĩa Ngân hàng thông qua chức năng mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ không chỉ chức năng của các Ngân hàng thay đổi, mà có sự “thâm nhập” vào chức năng hoạt động Ngân hàng của các đối thủ cạnh tranh. Do đó tuỳ theo đIều kiện của mỗi nước và sự phát triển của hệ thống tài chính nước đó mà có những định nghĩa khác nhau về Ngân hàng.
Ở Hoa kỳ: ngân hàng thương mại (NHTM) là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính (Lê Văn Tề, 2008).
Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác, hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính (Lê Văn Tề, 2008).
Đó là các quan niệm về Ngân hàng đứng trên giác độ luật pháp. Còn đứng trên giác độ tài chính Ngân hàng thì sao? Một định nghĩa khác về Ngân hàng được theo quan điểm của Peter Rose (Quản trị ngân hàng - 1999) “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Ở Việt Nam, theo quy định tại luật các tổ chức tín dụng thì Ngân hàng được định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác”. (Luật ngân hàng nhà nước, luật các tổ chức tín dụng - 2004). Như vậy thông qua một số khái niệm về Ngân hàng thương mại, ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh tín dụng với mục đích thu lợi nhuận, và nó có những đặc trưng như sau:
- Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
- Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.
- Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động chủ yếu là nhận tiền của khách hàng, với trách nhiêm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện tốt nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
- Ngân hàng thương mại ra đời cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, để đưa ra một khái niệm về ngân hàng thương mại, người ta phải dựa vào tính chất, mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, đôi khi còn kết hợp với tính chất mục đích và đối tượng hoạt động.
Các quan điểm trước đây thường đánh giá NHTM như một cơ quan thực hiện phân phối vốn thuần túy, từ đó cách nhìn nhận về ngân hàng còn nặng nề, với chức năng quản lý xem ngân hàng đã và đang phát triển, đã đạt vị trí tiên phong chủ chốt của nền kinh tế lưu thông và sản xuất hàng hóa. Việc thừa nhận thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế tại một thời điểm, có người thừa vốn, xuất hiện nhu cầu cho vay lấy lãi, có người thiếu cần được bổ xung lại có nhu cầu đi vay.
Theo luật các tổ chức tín dụng quy định “Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung úng các dịch vụ thanh toán”. (Luật ngân hàng nhà nước, luật các tổ chức tín dụng - 2004) có nếu “tổ chức tín dụng là doanh nhiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch thanh toán”.
Ngày nay trong xu thế hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển về số lượng và quy mô, hoạt động đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau, người ta phân biệt NHTM với các tổ chức môi giới tài chính khác ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền gửi chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn. Chính từ hoạt động đó tạo ra cơ hội cho NHTM có thể làm tăng cơ hội số tiền gửi của khách hàngtrong hệ thống ngân hàng của mình đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các tổ chức tín dụng khác.
* Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại
Nền kinh tế hàng hóa là cái nôi cho sự ra đời của NHTM và các ngân hàng thương mai có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó vai trò chủ yếu của NHTM là:
Ngân hàng thương mại góp phần nâng cao hiệu quả của sử dụng vốn trong nền kinh tế khi thực hiện chức năng lam kinh doanh tài chính, các ngân hàng thương mại thục hiên tập trung các khoản tiền nhàn rỗi, các nguồn tiền nhỏ phân tán thành một lượng vốn tâp trung có khối lượng lớn đủ khả năng tài trợ cho các hoạt động kinh tế theo từng quy mô nhất định. Khi làm tập trung thanh toán, ngân hàng tạo điều kiện tăng nhanh tốc độ thanh toán, đảm bảo an toàn chi trả và tiết kiệm các chi phí lưu thông không cần thiết cho xã hội. Đồng thời các ngân hàng thương mại còn góp phần chuyển dịch cơ cấu vốn trong xã hộin nó có thể chuyển phần vốn từ lĩnh vực kinh tế kém hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sang lĩnh vực có hiệu quả cao hơn, qua đó góp phần làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội được tăng lên.
Ngân hàng góp phần tạo ra các công cụ thanh toán thuận lợi, tiết kiệm được chi phí lưu thông.
Ngân hàng còn là cầu nối quan trọng trong các mối quan hệ giao lưu quốc tế. trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng thương mại hoạt động một cách co hiệu quả thông qua các hoạt động kinh doanh của mình sẽ thực hiện là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thương mại trong hệ thống các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền tập hợp mà phân chia vốn của thị trường, điều khiển chung một cách có hiệu quả thực thi và vai trò điều tiết giám sát vĩ mô “nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”. Ngày nay hầu hết các quốc gia đều thực hiện “mở cửa” nền kinh tế thì các ngân hàng thương mại được coi như là “nhịp cầu nối”, cửa ngõ đón nhận các dự án đầu tư, các hợp đồng mua bán ngoại thương cũng như các quan hệ giữa các tổ chức khác. Các ngân hàng thương mại có vốn trực tiếp tham gia vào quá trình đó bằng các quan hệ tài chính quốc tế, đối với việt nam hiện nay vị trí các ngân hàng thương mại càng được coi trọng, việc tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy ngân hàng thương mại ra đời, tồn tại và phát triển là do nhu cầu khách quan của nền kinh tế.
2.1.1.2. Khái quát về tín dụng
* Khái niệm tín dụng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hóa, nó phản ánh quan hệ kinh tế giữa người sở hữu với người sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả vốn và lợi tức khi đến hạn.
* Các hình thức tín dụng
a. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, tín dụng dài hạn được sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp vào các vấn đề như: xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng ở giữa hai kỳ hạn trên, loại tín dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
b. Căn cứ vào đối tượng tín dụng
+ Tín dụng vốn lưu động.
Là loại tín dụng được dùng hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế như cho dự trữ hàng hóa đối với các doanh nghiệp thương nghiệp; cho vay để mua phân bón, giống, thuốc trừ sâu đối với các hộ sản xuất nông nghiệp.
Tín dụng lưu động thường được sử dụng để cho vay bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời, loại tín dụng này thường được chia ra làm các loại sau: cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
+ Tín dụng vốn cố định.
Là loại tín dụng được dùng hình thành tài sản cố định. Loại tín dụng này thường được đầu tư để mua tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới, thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này là trung hạn và dài hạn.
+ Mục đích sử dụng vốn.
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa:Là loại tín dụng dành cho các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa.
Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức tín dụng dành cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng: mua sắm nhà cửa, xe cộ,…Tín dụng tiêu dùng được thể hiện bằng hình thức tiền hoặc bán chịu hàng hóa, việc cấp tín dụng bằng tiền thường do các ngân hàng, quỹ tiết kiệm, Hợp tác xã tín dụng và các tổ chức tín dụng khác cung cấp. Bên cạnh hình thức tín dụng bằng tiền còn có hình thức tín dụng được biểu hiện dưới hình thức bán hàng trả góp do các công ty, cửa hàng thực hiện.
c. Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng
+ Tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
Nguyên nhân của sự xuất hiện tín dụng thương mại là do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ, đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua hoặc bán sản phẩm, vì vậy có hiện tượng một số nhà doanh nghiệp muốn bán sản phẩm trong lúc đó có một số nhà doanh nghiệp muốn mua nhưng không có tiền. Trong trường hợp này nhà doanh nghiệp với tư cách là người muốn bán thực hiện được sản phẩm họ có thể bán chịu hàng hóa cho người mua.
Mua bán chịu hàng hóa là hình thức tín dụng vì:
- Người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định.
- Đến thời hạn đã được thỏa thuận người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và lợi tức.
+ Tín dụng ngân hàng.
* Khái niệm: Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một định chế tài chính trung gian, vì vậy trong quan hệ tín dụng với các nhà doanh nghiệp và cá nhân, ngân hàng vừa là người đi vay đồng thời là người đi vay.
Với tư cách là người đi vay ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân.
* Đối tượng của tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản như xây dựng các xí nghiệp mới, các cơ sở kinh tế hạ tầng, cải tiến và đổi mới kỹ thuật. Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu vốn tín dụng tiêu dùng của cá nhân.
+ Tín dụng nhà nước.
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước biểu hiện là người đi vay.
d. Vai trò của tín dụng
+ Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục.
Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định cho doanh nghiệp, vì vậy tín dụng động viên hàng hóa đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiến bộ vào trong quá trình sản xuất.
Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân đối, lạm phát và thất nghiệp vẫn luôn là khả năng tiềm ẩn, thông qua đầu tư tín dụng góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng mà sử dụng nguồn lao động và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội.
+ Thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hoạt động của các trung gian tài chính là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
+ Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn.
Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội đang trong quá trình công nghiệp hóa và là ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong điều kiện nước ta hiện nay, trong giai đoạn trước mắt Nhà nước phải tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó Nhà nước còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí.
+ Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử dụng vốn và sử dụng có hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay ngân hàng doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, tức phải là hoàn trả nợ vay đúng hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng, bằng các tác động như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
+ Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài.
Trong diều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền với thị trường thế giới, kinh tế “đóng” đã nhường bước cho kinh tế “mở”, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
2.1.1.3. Khái niệm về hoạt động cho vay vốn của ngân hàng
Cho vay là một phạm trù của tín dụng ngân hàng, trong thực tế thì hoạt động cho vay được hiểu th