Hệ thống thông tin quản lý là hệ thống cung cấp thông tin cho công tác quản lý của tổ
chức. Nó bao gồm con người, thiết bị và quy trình thu thập, phân tích, đánh giá và phân phối
những thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác cho những người soạn thảo các quyết định
trong tổ chức.
Đây cũng là tên gọi của một chuyên ngành khoa học.
Ngành khoa học này thường được xem là một phân ngành
của khoa học quản lý và quản trị kinh doanh. Ngoài ra, do
ngày nay việc xử lý dữ liệu thành thông tin và quản lý thông
tin liên quan đến công nghệ thông tin, nó cũng được coi là
một phân ngành trong toán học, nghiên cứu việc tích hợp hệ
thống máy tính vào mục đích tổ chức.
57 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4340 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu hệ thống ERP trong doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hệ Thống Thông Tin Quản Lý – TÌM HIỂU HỆ THỐNG ERP TRONG DOANH NGHIỆP
==================================================================
SV: Nguyễn Hữu Thuyết - MSSV: 40702398
0
TRƢỜNG ĐẠI HOC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN LÝ CÔNG NGHIỆP
BÀI LUẬN
HỆ THỐNG THÔNG TIN
QUẢN LÝ
Đề tài: Tìm Hiểu Hệ Thống ERP
Trong Doanh Nghiệp
GVHD : Võ Thị Ngọc Trân
Sinh viên : Nguyễn Hữu Thuyết
MSSV : 40702398 - Lớp: Bằng II
TP Hồ Chí Minh , Tháng 06 năm 2011
Hệ Thống Thông Tin Quản Lý – TÌM HIỂU HỆ THỐNG ERP TRONG DOANH NGHIỆP
==================================================================
SV: Nguyễn Hữu Thuyết - MSSV: 40702398
1
HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ
TÌM HIỂU HỆ THỐNG ERP TRONG DOANH NGHIỆP
Sinh viên: Nguyễn Hữu Thuyết
MSSV: 40702398
Chương I – Một Số Khái Niệm Cơ Bản
Chương II – Chức Năng ERP
Chương III – Xây Dựng Hệ Thống ERP
Chương IV – Phần mềm ERP
Chương V - Ứng dụng ERP Trong Doanh Nghiệp Việt
Nam.
Hệ Thống Thông Tin Quản Lý – TÌM HIỂU HỆ THỐNG ERP TRONG DOANH NGHIỆP
==================================================================
SV: Nguyễn Hữu Thuyết - MSSV: 40702398
2
Chƣơng I
Một Số Khái Niệm Cơ Bản
I/-Hệ thống thông tin quản lý
Hệ thống thông tin quản lý là hệ thống cung cấp thông tin cho công tác quản lý của tổ
chức. Nó bao gồm con người, thiết bị và quy trình thu thập, phân tích, đánh giá và phân phối
những thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác cho những người soạn thảo các quyết định
trong tổ chức.
Đây cũng là tên gọi của một chuyên ngành khoa học.
Ngành khoa học này thường được xem là một phân ngành
của khoa học quản lý và quản trị kinh doanh. Ngoài ra, do
ngày nay việc xử lý dữ liệu thành thông tin và quản lý thông
tin liên quan đến công nghệ thông tin, nó cũng được coi là
một phân ngành trong toán học, nghiên cứu việc tích hợp hệ
thống máy tính vào mục đích tổ chức.
1.Các loại thông tin quản lý
Thông tin quản lý là những dữ liệu được xử lý và sẵn
sàng phục vụ công tác quản lý của tổ chức. Có 3 loại thông
tin quản lý trong một tổ chức, đó là thông tin chiến lược,
thông tin chiến thuật, và thông tin điều hành.
Thông tin chiến lƣợc: là thông tin sử dụng cho chính
sách dài hạn của tổ chức, chủ yếu phục vụ cho các nhà quản lý cao cấp khi dự đoán tương lai.
Loại thông tin này đòi hỏi tính khái quát, tổng hợp cao. Dữ liệu để xử lý ra loại thông tin này
thường là từ bên ngoài tổ chức. Đây là loại thông tin được cung cấp trong những trường hợp
đặc biệt.
Thông tin chiến thuật: là thông tin sử dụng cho chính sách ngắn hạn, chủ yếu phục vụ
cho các nhà quản lý phòng ban trong tổ chức. Loại thông tin này trong khi cần mang tính
tổng hợp vẫn đòi hỏi phải có mức độ chi tiết nhất định dạng thống kê. Đây là loại thông tin
cần được cung cấp định kỳ.
Thông tin điều hành: (thông tin tác nghiệp) sử dụng cho công tác điều hành tổ chức
hàng ngày và chủ yếu phục vụ cho người giám sát hoạt động tác nghiệp của tổ chức. Loại
thông tin này cần chi tiết, được rút ra từ quá trình xử lý các dữ liệu trong tổ chức. Đây là loại
thông tin cần được cung cấp thường xuyên.
2.Cấu trúc hệ thống thông tin quản lý
Một hệ thống thông tin quản lý được thiết kế cấu trúc tốt gồm bốn hệ thống con, đó là
các hệ thống ghi chép nội bộ, hệ thống tình báo, hệ thống nghiên cứu và hệ thống hỗ trợ
quyết định.
Hệ thống ghi chép nội bộ: Đảm bảo cung cấp những số liệu hiện thời, nhiều tổ chức đã
phát triển những hệ thống ghi chép nội bộ tiên tiến có sử dụng máy tính để có thể cung cấp
thông tin nhanh và đầy đủ hơn.
Hệ Thống Thông Tin Quản Lý – TÌM HIỂU HỆ THỐNG ERP TRONG DOANH NGHIỆP
==================================================================
SV: Nguyễn Hữu Thuyết - MSSV: 40702398
3
Hệ thống tình báo: Cung cấp cho các nhà quản lý những thông tin hàng ngày, tình
hình đang diễn ra về những diễn biến của môi trường bên ngoài.
Hệ thống nghiên cứu thông tin: Thu thập những thông tin liên quan đến một vấn đề
cụ thể đặt ra trước tổ chức, đặc điểm của việc nghiên cứu thông tin tốt là có phương pháp
khoa học, sử dụng nhiều phương pháp, xây dựng mô hình, lượng định tỷ lệ chi phí/lợi ích của
giá trị của thông tin.
Hệ thống hỗ trợ quyết định: Gồm các phương pháp thống kê và các mô hình quyết
định để hỗ trợ các nhà quản lý ban hành các quyết định đúng đắn hơn.
3.Phân loại hệ thống thông tin quản lý
Một tổ chức có thể có nhiều cấp, và mỗi cấp có thể cần có một hệ thống thông tin quản
lý riêng của mình. Một tổ chức điển hình có thể có 4 cấp là chiến lược, chiến thuật, chuyên
gia và tác nghiệp. Vì thế, trong một tổ chức có thể có 4 hệ thống thông tin quản lý cho 4 cấp
này. Các cấp có thể có những bộ phận chung.
4.Các nguồn thông tin quản lý
Thông tin quản lý có thể lấy từ bên trong tổ chức hoặc từ bên ngoài tổ chức. Thông tin
nội tại tổ chức thường được lấy từ các báo cáo, sổ sách của tổ chức. Thông tin bên ngoài có
thể lấy từ đối tác, đối thủ cạnh tranh, tổ chức có liên quan, các nhà cung cấp, chính phủ, v.v...
5.Vai trò của công nghệ thông tin
Mặc dù một hệ thống thông tin quản lý không nhất thiết phải sử dụng công nghệ thông
tin, nhưng công nghệ thông tin (phần cứng lẫn phần mềm) đang ngày càng rẻ và góp phần tạo
ra năng suất xử lý, lưu trữ, phân phối thông tin ngày một cao, nên hệ thống thông tin quản lý
hiện đại thường tích cực sử dụng công nghệ thông tin.
Hàng ngày, có biết bao luồng thông tin mạnh mẽ và dồn dập đưa vô vàn các dữ liệu vào
máy tính, điện thoại và bàn làm việc của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Trong khối lượng
thông tin khổng lồ đó có thể chứa đựng những bí quyết giúp đem lại ưu thế cạnh tranh,nhưng
đồng thời cũng có thể đem lại những bước đi sai lầm nếu sa đà vào những dữ liệu chẳng có
liên quan mà đánh mất đi những chi tiết quý giá.
Trước tình hình như vậy, một điều trở nên tuyệt đối quan trọng để duy trì sức cạnh
tranh trên thị trường là phải tìm cách quản lý được thông tin hiệu quả, từ khi nó bắt đầu thâm
nhập, cho tới khi nó được dùng để thực hiện.
B. Foster, Giám đốc phụ trách về các Hệ thống kinh doanh và thương mại điện tử của
hãng Alean Inc, Montreal, nhận định: “Những công ty nào thông thạo nhất trong việc xử lý
khối lượng thông tin khổng lồ của mình sẽ là những doanh nghiệp có được lợi thế cạnh
tranh.”
6.Quản lý thông tin: doanh nghiệp đƣợc gì?
Một trong những tác dụng lớn nhất của việc quản lý tốt thông tin trong kinh doanh là
giúp giảm được phí tổn, kể cả trước mắt cũng như lâu dài. Trong lĩnh vực sản xuất có 2
ngành gặt hái được nhiều lợi ích, đó là hậu cần và mua sắm.
Ví dụ, Alean là Hãng hàng năm thu gom và tái chế trên 20 tỷ lon nhôm, một số năm
gần đây đã tăng được số lượng lon thu gom và tái chế lên gấp 3, trong khi không cần phải
tăng số lượng công nhân. Foster cho biết, sở dĩ hãng đạt được thành tích như vậy là nhờ cải
tiến các quy trình kinh doanh và sử dụng công nghệ đúng đắn.
Dựa vào các công cụ Web, hãng đã tạo một Web site trên Internet phục vụ cho việc hợp
tác, nhờ đó các nhà cung cấp hậu cần và các nhân viên hậu cần của hãng có thể truyền thông
tin hiệu quả hơn; thông tin liên tục được cập nhật liên quan đến quá trình vận chuyển, tái chế
Hệ Thống Thông Tin Quản Lý – TÌM HIỂU HỆ THỐNG ERP TRONG DOANH NGHIỆP
==================================================================
SV: Nguyễn Hữu Thuyết - MSSV: 40702398
4
và cung cấp lon nhôm. Foster tiết lộ rằng hãng còn dự định tiến xa hơn bằng cách đề ra một
quy trình thanh toán mới, trong đó mọi người không cần phải nộp hoá đơn vận chuyển.
Do nắm được giá cả và mức thuế vận chuyển nên việc thanh toán sẽ được thực hiện tự
động. Alean cũng xây dựng được một cơ sở dữ liệu cho việc chuyên chở hàng, nhờ vậy các
nhóm hậu cần có thể sử dụng nó để giảm bớt số lượng xe chuyên chở và duy trì mức thuế
thấp. Foster cho biết: “Việc quản lý thông tin sẽ hiệu quả nhất khi có sự cộng tác chặt chẽ
giữa những nhà hoạt động kinh doanh và các chuyên gia công nghệ thông tin để cùng nhau
phấn đấu cho mục tiêu chung của tổ chức”.
Charles Peters, Phó Chủ tịch Hãng Emerson cho biết lĩnh vực hậu cần của hãng cũng
tiết kiệm được nhiều nhờ quản lý tốt thông tin. Năm 2002, Hãng đã thực hiện việc quản lý
tập trung công tác hậu cần mà trước đây để cho 50 bộ phận tự tiến hành. Theo phương pháp
cũ, mạng lưới vận tải bị phân tán, với hàng nghìn điểm xuất phát và điểm đến, gây ra lãng
phí rất lớn. Cách tiếp cận mới cho phép các bộ phận chia sẻ thông tin với nhau một cách tức
thời (Real time) về nhu cầu hậu cần. Vì vậy, mọi hoạt động đã được liên kết với nhau trong
một hệ thống quản lý chung. Peters cho biết cho tới nay, nhờ có Hub System (Hệ thống trung
tâm), mà Emerson đã tiết kiệm được khoảng 20 triệu USD và có triển vọng tiết kiệm được
toàn bộ là 150 triệu USD. Ngoài ra, 5 năm qua Emerson còn tiết kiệm được trên 100 triệu
USD nhờ hợp nhất được các khâu mua vật liệu, dựa vào Mạng Thông tin Vật liệu (MIN) của
hãng (MIN là một cơ sở dữ liệu, giúp hợp nhất được việc mua vật liệu từ trên 1.000 địa
phương theo định dạng chung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi và phân tích.
Nhờ sự giúp đỡ của MIN, các nhóm quản lý hàng hoá theo kiểu tập trung của Emerson
có thể cộng tác được với các nhà cung ứng theo quan hệ liên bộ phận). Peters cho biết, đây là
lần đầu tiên hãng có khả năng quản lý được thực sự và hữu hiệu cơ sở cung ứng ở quy mô
toàn công ty.
Không chỉ các hãng lớn như Emerson hay Alean là cần thực hiện tốt công tác quản lý
thông tin để duy trì sức cạnh tranh, mà cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng phải thực hiện
như vậy. John Hayer, Giám đốc điều hành phụ trách về thông tin (CIO) cho Forexco, là người
đã lĩnh hội được điều đó. Hiện nay, Hayer đang hợp tác với hãng Oracle để nâng cấp các hệ
thống công nghệ thông tin. Ông cho biết: “Thị trường bây giờ trở nên rất phức tạp và với
hàng đống thông tin thu được đã khiến công ty gặp rất nhiều khó khăn để truy cập, trong khi
cần phải nhanh chóng có những quyết định đúng đắn. Chiến lược của Công ty là chuyển toàn
bộ thông tin đó vào một môi trường tích hợp, trong đó Công ty có thể thiết lập được mối
quan hệ giữa các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, giúp cho việc phân tích được dễ dàng
hơn”.
Hayer dự kiến sẽ sử dụng các thiết bị đầu cuối ở trong công ty để cung cấp thông tin
liên quan đến công việc. Biện pháp này sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và tiền bạc, vì mỗi
một cánh cửa và cửa sổ do Công ty sản xuất được đều được làm theo mẫu đặt hàng. Việc
dùng thiết bị điện tử để cung cấp thông tin sẽ giúp giảm được sai sót và dễ dàng hơn trong
việc đạt các đặc trưng chính xác.
7.Quản lý thông tin nhƣ thế nào?
B Foster cho biết khi lựa chọn các công cụ quản lý thông tin, hãng chú trọng vào việc
làm sao để công nghệ thật phù hợp với các quy trình hoạt động của mình. Mạng nội bộ
(Intranet) của Alean là một phương tiện quan trọng và không đắt lắm, phục vụ cho việc phổ
biến thông tin, và hiện tại nó đang được nâng cấp để chứa những cổng có khả năng thích ứng
được hơn với từng nhóm hoạt động. Foster nói: “Chúng tôi cố gắng để chỉ đầu tư thấp cho
công nghệ thông tin và chỉ chú trọng vào một số ít công cụ”. Ở nơi tiếp nhận thông tin, Hãng
Hệ Thống Thông Tin Quản Lý – TÌM HIỂU HỆ THỐNG ERP TRONG DOANH NGHIỆP
==================================================================
SV: Nguyễn Hữu Thuyết - MSSV: 40702398
5
sử dụng công nghệ cơ sở dữ liệu để kết hợp các thông tin đến, sau đó áp dụng chương trình
Cogno để phân tích và đưa ra quyết định kinh doanh.
Một loạt các phần mềm mới, hay là các chương trình dựa vào tri thức (Knowledge-
Based Programs) đã được phát triển, giúp tiết kiệm thời gian cho các kỹ sư và các nhà thiết
kế sản phẩm bằng cách giải phóng họ khỏi những công việc cực nhọc, quản lý nguồn vốn trí
tuệ của công ty, thậm chí còn “đọc” được các bằng sáng chế, tài liệu kỹ thuật và các loại tài
liệu khác. Những phần mềm thông minh này đã tạo điều kiện cho các kỹ sư, các nhà thiết kế
có thể tập trung phần lớn thời gian và công sức của mình vào công việc chủ yếu là đổi mới và
sáng tạo, cũng như giúp các nhà sản xuất nhanh chóng chế tạo được sản phẩm để đưa ra thị
trường. Heide Corp. đưa ra Chương trình mang tên Intent, có công dụng tự động hoá việc tạo
ra các sản phẩm theo đơn hàng. Hãng C-Mold (Louisville) phát triển được Know How, một
cổng Intranet có chức năng cung cấp thông tin theo nhu cầu, mà có ý nghĩa quan trọng cho
các ngành khác nhau, đồng thời cũng lưu giữ được nguồn tri thức của các công nhân để khỏi
bị thất lạc khi có sự luân chuyển. Hãng Invention Machine Corp. phát triển được Tech-
Optimizer – một công cụ giải quyết vấn đề dựa vào cơ sở tri thức kỹ thuật. Nó đưa ra các giải
pháp cần khi người kỹ sư mô tả các hệ thống và nhập câu hỏi vào phần mềm. Giải pháp này
rất kịp thời, bởi lẽ Invention Machine có một đội ngũ cán bộ nghiên cứu đa ngành, nên đã có
một khối lượng lớn kiến thức được đưa vào trong phần mềm. Để tận dụng, Hãng đã phải phát
triển một bộ xử lý ngữ nghĩa, trên cơ sở đó xây dựng được 2 chương trình: CoBrain và
Knowledgist. Các chương trình này có khả năng “đọc” hàng đống tài liệu trong một thời gian
rất ngắn, để rút ra từ đó những khái niệm then chốt, đánh chỉ số và đưa ra những giải pháp
liên quan nhất cho các vấn đề mà ta đang quan tâm tìm kiếm. “Chúng tôi đã lâm vào tình
trạng bị ngập ứ thông tin. Vấn đề đặt ra là liệu có cách gì để tận dụng được lợi ích trong khối
lượng thông tin khổng lồ đó không? Liệu có cách gì để tự động hoá việc “đọc” các tài liệu
không? CoBrain và Knowledgist đã giúp khẳng định là những việc đó hoàn toàn có thể thực
hiện được”, P. George ở Invention Machine cho biết.
Hãng Nghiên cứu và Tư vấn Brown ở Port Chester, đã phân loại các chương trình trên
thành 2 loại: Kỹ thuật quản lý tri thức (KM) và Kỹ thuật dựa vào tri thức (KBE). Các hệ
thống quản lý tri thức có nhiệm vụ khai thác dữ liệu, thường là các tài liệu lưu trữ với số
lượng lớn, chất đống năm này sang năm khác. Còn các hệ thống kỹ thuật dựa vào tri thức lại
có chức năng vận dụng các nguyên tắc và sau đó tự động hoá khâu phát triển sản phẩm.
Nhưng cả hai loại hình chương trình trên đều có chung một đặc điểm, đó là phát huy tính ưu
việt của Internet, của băng thông ngày càng được mở rộng, của các chương trình nội bộ ngày
càng được tích hợp với nhau và những máy tính cá nhân mạnh hơn, nhanh hơn, để vươn khỏi
phạm vi của những nhiệm vụ tương đối hẹp nói trên.
Một báo cáo mới đây của Hãng Brown cho biết: “Cho tới nay, vẫn còn ít tổ chức quan
tâm đến cơ hội này. Những tổ chức mà đã tận dụng được nó, thông báo rằng họ đã giảm được
thời gian và chi phí thiết kế tới 90%”. Ngoài việc tiết kiệm được thời gian và tăng chất lượng
chế tạo, một lợi ích nữa thu được, đó là giúp các kỹ sư cảm thấy hứng thú với công việc của
mình, vì họ không còn phải mất thời gian và sức lực cho những phần việc nhàm chán.
8.Bƣớc tiến trong quản lý thông tin: cung cấp tri thức đúng thời điểm (Just-in-time
Knowledge)
Tình trạng quá tải thông tin sẽ ngày một trầm trọng thêm lên. Ví dụ, các bác sĩ ở Anh,
ngoài việc phải nắm vững kiến thức cơ bản và chuyên môn, còn phải biết về nhiều loại văn
bản hướng dẫn của Chính phủ, thông tin của các công ty dược phẩm, những cảnh báo về tác
Hệ Thống Thông Tin Quản Lý – TÌM HIỂU HỆ THỐNG ERP TRONG DOANH NGHIỆP
==================================================================
SV: Nguyễn Hữu Thuyết - MSSV: 40702398
6
dụng phụ của thuốc v.v… Mỗi tháng, nếu cân lên, số văn bản đó có thể nặng 2 kg (Manka,
1997).
Với công nghệ thông tin (IT) ta có khả năng quản lý tri thức để chuyển tải tới cho ai
cần đến nó ở dạng cần thiết, đáp ứng nhu cầu cụ thể của họ. Tuy nhiên, nếu chỉ quan niệm
điều đó đơn giản là việc chuyển những thông tin hiện có về dạng điện tử, rồi phân phối và
đưa đến cho người dùng, thì hoàn toàn chưa đạt yêu cầu. Phải làm sao để người dùng không
những dễ dàng lấy được những mảng thông tin có liên quan, mà còn phải biết cách tổ chức
chúng có hiệu quả.
Ngành sản xuất đã từng áp dụng một phương pháp, gọi là phương pháp đáp ứng đúng
thời điểm (Just-in-time), nhờ đó không cần xây dựng những kho chứa vật tư, chi tiết (mà
không phải lúc nào cũng cần đến), mà dựa vào việc tổ chức công tác cung ứng hiệu quả, đảm
bảo đưa những chi tiết cần thiết vào đúng lúc và đúng nơi cần. Hướng chú trọng đã chuyển từ
khâu lưu trữ sang khâu phân phối, cung ứng hiệu quả.
Tương tự, mọi người bắt đầu nghĩ đến phương pháp để cung cấp được tri thức cần thiết
đúng vào lúc cần có. Do vậy, rất có thể, những công cụ giúp cung cấp tri thức vào đúng thời
điểm sẽ có vai trò quan trọng ở thế kỷ 21.
Có thể nói, thông tin hiện nay đối với các nhà điều hành doanh nghiệp cũng giống như
lửa đối với những người cổ đại trước đây. Nếu biết kiểm soát và ứng dụng nó thì doanh
nghiệp sẽ tồn tại và phát triển, nhưng nếu làm sai hoặc không quan tâm đến thì sẽ nhanh
chóng tàn lụi. Chính vì vậy mà doanh nghiệp cần phải nhận thức được tầm quan trọng của
việc quản lý thông tin, biết cách chú trọng vào các dữ liệu có tầm chiến lược, đầu tư sáng
suốt vào một số lượng hạn chế các công nghệ và tạo ra các luồng dữ liệu thích hợp để tạo ra
cho mình lợi thế cạnh tranh trên thương trường.
II/- Khái niệm ERP
1.ERP là gì?
Thời gian gần đây trong giới CNTT và các doanh nghiệp xuất hiện một thuật ngữ khá phổ
biến, đó là ERP. Có thể ai cũng có một số khái niệm căn bản về ERP là Enterprise Resource
Planning: Quản lý nguồn lực doanh nghiệp, nhưng hầu như đó chỉ là khái niệm mơ hồ. Vậy
chính xác ERP là gì?
ERP được định nghĩa là một hệ thống ứng dụng đa phân hệ” (Multi Module Software
Application) giúp tổ chức, doanh nghiệp quản lý các nguồn lực và điều hành tác nghiệp . Bản
chất ERP là một hệ thống tích hợp các phần mềm ứng dụng đa phân hệ nhằm giúp tổ chức,
doanh nghiệp quản lý các nguồn lực và tác nghiệp. Giải pháp ERP cung cấp cho các nhà
quản lý doanh nghiệp khả năng quản lý và điều hành tài chính – kế toán, quản lý vật tư, quản
lý sản xuất, quản lý kinh doanh và phân phối sản phẩm, quản lý dự án, quản lý dịch vụ, quản
lý khách hàng, quản lý nhân sự, các công cụ dự báo và lập kế hoạch, báo cáo, .v.v. Thêm vào
đó, như một đặc điểm rất quan trọng mà các giải pháp ERP cung cấp cho các doanh nghiệp,
là một hệ thống quản lý với quy trình hiện đại theo chuẩn quốc tế, nhằm nâng cao khả năng
quản lý điều hành doanh nghiệp cho lãnh đạo cũng như tác nghiệp của các nhân viên.
Hệ Thống Thông Tin Quản Lý – TÌM HIỂU HỆ THỐNG ERP TRONG DOANH NGHIỆP
==================================================================
SV: Nguyễn Hữu Thuyết - MSSV: 40702398
7
2.Workflow là gì?
Định nghĩa đơn giản nhất của workflow: là các định nghĩa của các qui trình đã
chuẩn hóa. Và khi mình viết các module cho từng công việc, workflow là 1 chuỗi công việc
phải làm. Thường thì các công ty nước ngoài hoặc các doanh nghiệp lớn mới có được sự ổn
định trong các quy trình làm việc, nên workflow của họ thường là 1 dòng chảy thống nhất, ví
dụ: A –> B –> C –> D. Tuy nhiên ở các doanh nghiệp Việt Nam, sự ổn định trong dòng chảy
đó thường là hiếm, nên nhiều khi các ERP có workflow phải thường là workflow động. Ví
dụ, tại một thời điểm X thì workflow của phòng sản xuất là A –> B –> C –> D, tuy nhiên có
thể tại thời điểm Y thì workflow đó được thay đổi là: B –> A –> C –> D, và …
Tuy nhiên để rộng đường tìm hiểu workflow, tôi xin mượn ý kiến của 1 bài viết mà tôi
đã có dịp đọc được trên mạng (của Phí Anh Tuấn). Theo bài viết đó thì workflow trong một
ERP thể hiện ở các yếu tố căn bản sau :
a. Các quy trình và khả năng xử lý công việc theo trình tự công việc. Ví dụ trình tự
công việc cho việc mua hàng trong hệ thống ERP minh hoạ như sau : Các bộ phận có nhu
cầu mua hàng xây dựng yêu cầu mua hàng POP (Purchase order Proposal) -> phòng mua
hàng -> Nhân viên phụ trách mua