Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch là nhu cầu quan trọng trong đời sống văn hóa – xã hội. Về mặt kinh tế du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước công nghiệp phát triển. Du lịch được coi là ngành công nghiệp – công nghiệp du lich. Và hiện nay ngành công nghiệp này đứng sau công nghiệp dầu khí và ô tô. Đối với nhiều nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế của quốc gia. Phát triển du lịch quốc tế và nội địa đã trở thành một chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta vì ngành du lịch không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần tăng cường mối quan hệ quốc tế, củng cố hòa bình, thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong những năm qua lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng.Năm 2008, Việt Nam đã đón 4,218 triệu lượt khách quốc tế, con số này năm 2009 là 3,8 triệu lượt, giảm 11% so với năm trước. Năm 2012, số khách quốc tế đến Việt Nam là 6,8 triệu lượt, khách nội địa đạt 32,5 triệu lượt. Doanh thu ngành du lịch Việt Nam năm 2009 đạt từ 68.000 đến 70.000 tỷ đồng160.000 tỷ đồng năm 2012 Du lịch đóng góp 5% vào GDP của Việt Nam.
31 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1935 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu tâm lý khách Nhật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch là nhu cầu quan trọng trong đời sống văn hóa – xã hội. Về mặt kinh tế du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước công nghiệp phát triển. Du lịch được coi là ngành công nghiệp – công nghiệp du lich. Và hiện nay ngành công nghiệp này đứng sau công nghiệp dầu khí và ô tô. Đối với nhiều nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế của quốc gia. Phát triển du lịch quốc tế và nội địa đã trở thành một chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta vì ngành du lịch không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần tăng cường mối quan hệ quốc tế, củng cố hòa bình, thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong những năm qua lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng.Năm 2008, Việt Nam đã đón 4,218 triệu lượt khách quốc tế, con số này năm 2009 là 3,8 triệu lượt, giảm 11% so với năm trước. Năm 2012, số khách quốc tế đến Việt Nam là 6,8 triệu lượt, khách nội địa đạt 32,5 triệu lượt. Doanh thu ngành du lịch Việt Nam năm 2009 đạt từ 68.000 đến 70.000 tỷ đồng160.000 tỷ đồng năm 2012 Du lịch đóng góp 5% vào GDP của Việt Nam.
Trong đó thị trường khách trường khách quốc Nhật Bản cùng với thị trường khách trung Quốc, Mỹ, Anh, Hàn Quốc là những thị tế đến Việt Nam. Đó cũng là những thị trường khách nguồn cơ bản của vùng Đông Nam Á và trên thế giới. Nhật Bản là một trong những đất nước có nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Thu nhập bình quân trên đầu người là 34.023 USD/năm(năm 2007). Đây cũng là một trong những nước có dân số đông 126.18 triệu người(năm 2010) sức khỏe, nâng cao tầm hiểu biết và cũng là biện phát để cân bằng cán cân thương mại. Khách du lịch Nhật Bản là thị trường khách có khả năng thanh toán cao, số lượng khách đi du lịch nước ngoài lớn trên 15 triệu lượt khách / năm. Trong giai đoạn 2003/12, lượng khách Nhật Bản đến Việt Nam tăng bình quân 12%/năm. Riêng năm 2012, đã có gần 60 vạn khách Nhật Bản đến Việt Nam, tăng 19,7% so với năm 2011; 10 tháng đầu năm nay đã có gần 50 vạn du khách Nhật Bản đến Việt Nam.
Thực trạng này đòi hỏi Đảng và Nhà Nước,Tổng Cục du lịch Việt Nam và các cơ quan chức năng có liên quan đến du lịch đưa ra các chiến lược hợp lý nhằm thu hút khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam ngày càng đông hơn.
II. KHÁI QUÁT:
1. Kinh tế
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên, ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi dân số quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh. Tuy nhiên,nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi trong những năm 1945- 1954, phát triển cao độ trong những năm 1955- 1973 khiến cho cả thế giới hết sức kinh ngạc và khâm phục.
Nhật Bản là một nước có nền kinh tế-công nghiệp-tài chính thương mạidịch vụ-khoa học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên thế giới (đứng sau Hoa Kỳ). Cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới. Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn vị tiền tệ là: đồng Yên Nhật.
2. Tôn giáo
Đạo gốc của Nhật Bản là Thần đạo (đạo Shinto), có nguồn gốc từ thuyết vật linh của người Nhật cổ. Qua Trung Quốc và Triều Tiên, Phật giáo được du nhập từ Ấn Độ vào Nhật Bản từ khoảng giữa thế kỷ thứ VI. Khoảng
84% đến 96% dân số Nhật theo cả đạoShinto và Phật giáo
3. Quốc kỳ và Quốc ca
Quốc kỳ Nhật Bản, ở Nhật Bản tên gọi chính thức là Nisshōki, nhưng người ta cũng hay gọi là Hinomaru tức là "vầng mặt trời", là lá cờ nền trắng với một hình tròn đỏ lớn (tượng trưng cho Mặt Trời) ở trung tâm. Quốc ca của Nhật Bản là Kimi Ga Yo.
4. Hệ thống chính trị
Hoàng gia Nhật do Nhật hoàng đứng đầu. Theo Hiến pháp Nhật thì “Hoàng đế Nhật là biểu tượng của quốc gia và cho sự thống nhất của dân tộc”. Nhật hoàng sẽ tham gia vào các nghi lễ của quốc gia nhưng không giữ bất kì quyền lực chính trị nào, thậm chí trong các tình huống khẩn cấp của quốc gia. Quyền lực này sẽ do Thủ tướng và các thành viên nghị viện đảm nhận.
5. Văn hoá, phong tục tập quán.
Người Nhật rất coi trọng sự chào hỏi, ở đâu, lúc nào và đối với bất cứ ai họ cũng đều tỏ ra rất lịch sự và nghiêm túc trong việc chào hỏi lẫn nhau, đó là một tập quán tốt đẹp của người Nhật.
Tặng quà là một phần trung tâm trong văn hoá kinh doanh của người Nhật. Nói chung, người Nhật rất thích tặng quà. Hay đúng hơn, việc tặng quà đã trở thành một thói quen, một lễ nghi không thể thiếu được trong đời sống thường ngày của họ. Tặng quà được xem như một cách thể hiện sự yêu mến và kính trọng lẫn nhau và để xác định các mối quan hệ xã hội.
6. Hệ thống phương tiện giao thông
Tại các thành phố lớn tại Nhật Bản phương tiện giao thông phổ biến nhất là tàu điện và tàu điện ngầm. Tàu điện và tàu điện ngầm rất thuận tiện và đúng giờ. Bên cạnh đó, một số người cũng sử dụng xe buýt. Tuy nhiên xe buýt không tiện lợi so với các phương tiện trên do có số lượng chuyến không nhiều và có khả năng không đúng giờ vào những giờ cao điểm. Giá dịch vụ taxi ở Nhật tương đối đắt. Cước phí được tính theo km và thay đổi theo giờ; buổi tối đắt hơn giá ban ngày. Ngoài ra, xe đạp là phương tiện khá tiện lợi và kinh tế.
III. TÍNH CÁCH NGƯỜI NHẬT:
1. Những tính cách tiêu biểu:
1.1 Ý thức cộng đồng:
Ý thức cộng đồng của người nhật quá mạnh dẫn đến việc họ có tập quán tuân thủ mệnh lệnh Hành động của họ đều dựa trên các chuẩn mực về thứ bậc trong xã hội và mang tính thứ bậc rõ nét. Điểm tốt là mọi người hòa hợp với nhau và dễ thống nhất.
1.2 Trong các quan hệ cá nhân:
Người Nhật thành thực đến mức đến độ người khác phải ngạc nhiên.
1.3 Xem trọng kỷ luật:
Người Nhật theo chủ nghĩa tuyệt đối, họ quá để ý đến kỷ luật, thức bậc. Có lẽ trên thế giới ai cũng biết người Nhật rất tôn trọng kỷ luật.
Thích làm thủ công và thích những hàng thủ công.
1.4 Với cộng đồng:
Tính cộng đồng khá mạnh.
Rất cởi mở với hàng hóa nước ngoài nhưng lại dè dặt với người nước ngoài.
1.5 Về chính trị:
Không có tư tưởng chính trị nổi bật hay không dựa vào tư tưởng chính trị cụ thể nào cả.
Sức ảnh hưởng của chính phủ không mạnh. Phe phái trong chính phủ quá nhiều. Nhà nước có thể tồn tại với các cơ quan hành chính địa phương có mà không cần chính phủ trung ương.
Hiếu chiến và dễ bị kích động.
1.6 Về lĩnh vực kinh tế - ngoại giao:
Thiếu tính chiến lược trong các chính sách kinh tế , ngoại giao. Không có quan điểm, đường lối rõ ràng cho các chính sách ngọai giao.Tất cả chỉ dựa vào “chủ nghĩa hòa hợp” của người Nhật.
Thiếu tính độc lập. Hầu như không có người Nhật nổi tiếng nào có suy nghĩ, phát minh hoàn tòan độc lập và không chịu ảnh hưởng của xung quanh.
1.7 Khái niệm về đạo đức:
Chú trọng nhiều đến danh dự mà không để ý nhiều đến ý thức về tội lỗi. Người Nhật một mặt chú trọng đến lễ nghĩa. Mặc khác lại không dám nhìn thẳng vào các tội ác đã gây ra trong quá khứ. Lý do sâu xa nằm ở quan niệm về đạo đức của người Nhật.
1.8 Về luật pháp:
Người Nhật ghét luật pháp. Có lẽ nhiều người cảm thấy mâu thuẫn nhưng bằng chứng cho việc này chính là Nhật Bản được xếp vào nhóm nhà nước pháp trị tại châu Á. So với người Âu, Mỹ thì thì người Nhật có xu hướng giải quyết nội bộ tất cả các vấn đề. Chỉ khi không giải quyết được mới mang ra tòa án.
1.9 Óc thẩm mỹ:
Ấn tượng ban đầu của bất kỳ ai lần đầu đến thăm Nhật Bản là ngạc nhiên và thán phục về óc thẩm mỹ của người Nhật, từ cách trang trí nhà cửa sắp, xếp đồ đạc trong gia đình hay cách bài trí bữa cơm đều khiến cho mọi người có cảm giác tiếp cận một sự tinh tế, một óc thẩm mỹ cao. Nhưng óc thẩm mỹ của người Nhật không chỉ biểu hiện qua các hiện tượng bên ngoài mà còn qua lối suy nghĩ và cung cách làm việc của họ hàng ngày, hay nói rộng ra là nhân sinh quan của họ. Họ luôn tìm kiếm cái đẹp trong công việc của mình, người Nhật nổi tiếng là người làm việc cần mẫn, xem công việc của công ty như là công việc của mình, luôn tận tâm tận sức, nhiều khi họ làm việc không phải vì lợi ích cá nhân của mình, họ xem công việc của họ không những là “hoạt động kinh tế” mà còn là “hoạt động thẩm mỹ”.
2. Những nguyên tắc sống cơ bản của người Nhật Bản:
2.1 Lối cư xử:
Người nhật rất chú trọng đến lối cư xử và giao tiếp hằng ngày:
Khi giao tiếp với 1 người nhật bản thì việc nhìn thẳng vào mặt đối phương là điều cấm kị, họ thường tìm 1 vật trung dung để nhìn. Khác với người việt nam khi nói chuyện thì nhìn thẳng vào mặt đối phương được cho là hành động thể hiện sự tự tin, thẳng thắn và chân thành.
Những lễ nghi trong văn hóa ứng xử của người Nhật cũng thể hiện độc đáo ngay từ cái cúi chào và bắt tay. Cho đến nay, người Nhật vẫn còn giữ thói quen cúi chào gập người ngang thắt lưng. Nếu ngồi trên sàn nhà mà cúi chào thì đặt tay xuống sàn và cúi đầu, trán hầu như sát đất. Người Nhật chào nhau một vài lần trong ngày.Nếu gặp người trên, ở cơ quan chẳng hạn, thì lần đầu phải cúi chào thi lễ, còn những lần sau chỉ khẽ cúi chào.Cha mẹ đi hay về, con cái đều phải ra tận cửa tiễn hoặc đón. Trong những trường hợp này đều có những câu chào được quy định. Nghi thức cúi chào của họ ngay cả người Nhật cũng cảm thấy rườm rà, nhưng vẫn tiếp tục tồn tại.khi đến việt nam thì người nhật sẽ được nghe nhiều lời chào hơn vì người việt nam rất coi trọng lời chào. Con cái trong gia đình từ nhỏ đã được dạy dỗ từng lời nói, cử chỉ lễ phép chào hỏi khi khách vào nhà, khi gặp người già cả, người lớn tuổi đi vào đường làng, ngõ xóm, phường phố (lời chào cao hơn mâm cỗ).
2.2 Sự hài hòa làm gốc rễ cũa đạo đức:
Du khách Nhật ít khi biểu lộ sự không hài lòng một cách trực tiếp. Nếu chất lượng tour du lịch có vấn đề họ thường gửi thư hoặc thông qua đại lí. Các doanh nghiệp du lịch nên tìm hiểu mức độ hài lòng của du khách bằng nhiều hình thức để tránh những vướng mắc về sau, đơn giản thông qua các phiếu điều tra hoặc bảng hỏi gửi cho khác.
2.3 Khách hàng là thượng đế:
Họ cho rằng người trả tiền luôn có vị thế cao hơn người nhận tiền. Vì vậy du khách Nhật thường hay khó tính, nhiều yêu cầu, hay phàn nàn và luôn đòi hỏi sự phục vụ với chất lượng cao nhật. Người Nhật có cuộc sống thuận lợi, nhiều tiện nghi, quen với việc sử dụng nhiều sản phẩm thuận tiện nên khi đi du lịch nước ngoài, họ thường không dễ thích nghi với những điều kiện thiếu thốn tại điểm du lịch
2.4 Đúng giờ:
Đúng giờ là nguyên tắc sống rất quan trọng của người Nhât. Trong các hoạt động du lịch, người Nhật cảm thấy không hài lòng khi phải chờ đợi.
2.5 Sức khỏe là vàng:
Khi đi du lịch người Nhật rất quan tâm đến việc bảo vệ sức khỏe, vấn đề an ninh và an toàn.
2.6 Coi trọng sạch sẽ:
Người Nhật luôn coi trọng sự sạch sẽ trong cuộc sống thường nhật cũng như khi đi du lịch. Vì quá sạch sẽ nên đôi khi khả năng miễn dịch của họ rất yếu, vì vậy du khách Nhật rất cẩn thận trong vấn đề vệ sinh và ăn uống.
2.7 Hiểu ngôn ngữ và văn hóa:
Số ít người Nhật sử dụng thuần thục tiếng anh. Người Nhật quan niệm rằng ần giấu sau ngôn ngữ là văn hóa, và họ yêu cầu hướng dẫn viên không chỉ sử dụng thành thạo ngôn ngữ mà còn phải hiểu văn hóa và phong cách sống của người Nhật Bản.
2.8 Cách ăn uống:
+ Thực phẩm chủ yếu là: Cá, rau biển, rau quả, đậu nành, gạo, trái cây, trà xanh.
+ Sử dụng đồ tươi , đúng lúc.
+ Khẩu phần nhỏ và chia thành nhiều bữa.
+ Người Nhật ăn cơm hàng ngày.
+ Người Nhật ăn bằng đũa, không cầm thức ăn bằng tay, không vứt đồ thừa hay xương thịt cá ra bàn ăn hay xuống sàn nhà mà phải bỏ vào đĩa riêng.
+ Thanh niên thích ăn thịt hơn ăn cá, và thích các món ăn Âu hơn các món ăn Nhật Bản truyền thống.
3 Tôn giáo và những điều cấm kị:
Người Nhật Bản đa phần có tín ngưỡng Phật giáo và Thần đạo. Người Nhật Bản không thích màu tím, họ cho rằng màu tím mang màu sắc đau thương, họ kiêng kị nhất là màu xanh lá cây, vì họ cho rằng màu xanh lá cây là màu không may mắn.
Người Nhật Bản còn kiêng kị 3 người cùng chụp chung ảnh, họ cho rằng người đứng ở giữa sẽ bị 2 người bên trái và bên phải kẹp lấy, đây là điềm không may. Họ còn kiêng kị hoa sen, cho rằng hoa sen là hoa tang tóc. Khi đi thăm người bệnh, họ kiêng kị tặng hoa sơn trà, hoa có màu vàng nhạt và hoa màu trắng.
Người Nhật Bản không muốn nhận quà và vật có hình hoa cúc do người khác tặng, vì hoa cúc là biểu tượng của gia tộc hoàng thất. Người Nhật Bản yêu thích các loại hình như cây tùng, cây trúc, hoa mai, con vịt, con rùa, v.v.
IV. TÂM LÍ KHÁCH DU LỊCH NHẬT KHI ĐẾN VỚI VIỆT NAM:
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn điểm đến du lịch của du khách Nhật Bản là an ninh, sự sạch sẽ, cơ sở lưu trú tiện nghi với dịch vụ chu đáo, hệ thống giao thông thuận tiện, chất lượng của hướng dẫn viên du lịch sử dụng tiếng Nhật, các thông tin, sách hướng dẫn. Ngoài ra, các yếu tố thời tiết, bệnh dịch, sức khỏe và y tế cũng ảnh hưởng tới việc lựa chọn điểm đến của khách du lịch Nhật Bản.
1. Đặc điểm của một số thị trường khách du lịch Nhật Bản tiêu biểu:
1.1 Giới học sinh, sinh viên:
Thường đi theo đoàn và kinh phí do Nhà nước cấp, nhu cầu tương đối đơn giản, thường coi trọng tính kinh tế của dịch vụ cung cấp, ưa thích đồ ăn châu Âu, fast food và các món ăn địa phương, thường quan tâm, tìm hiểu văn hóa.
1.2 Giới nữ trẻ thường có độ tuổi trung bình từ 20 – 30:
Giới nữ ở độ tuổi này chưa lập gia đình có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, rất sành điệu trong tiêu dùng nhưng cũng rất quan tâm đến kinh tế của dịcch vụ, sở thích của họ là mua sắm, thời trang, trang sức, sản phẩm lưu niệm của địa phương.
1.3 Các gia đình:
Họ thường quan tâm đến thực đơn riêng của trẻ em, ưa thích các hoạt động nghỉ ngơi, thư giãn, cui chơi giải trí, thể thao, thích ở phòng rộng, khách sạn có bể bơi riêng và có dịch vụ trông trẻ.
1.4 Người cao tuổi:
Thường đi du lịch nhờ vào quỹ lương sau khi nghỉ hưu, có mức tiêu dùng khá cao, thích thư giãn nghỉ ngơi, rất hứng thú trong việc tìm hiểu lịch sử, văn hóa và tự nhiên của điểm du lịch.
1.5 Khách thương gia:
Đối tượng khách luôn thiếu thời gian và thường đi du lịch với mục đích kết hợp công việc, thời gian tham quan ít, thích chơi golf, hứng thú tìm hiểu cuộc sống về đêm tại điểm du lịch.
1.6 Khách du lịch ba lô:
Mức tiêu dùng không cao, đi du lịch theo kiểu tổ chức, rất quan tâm đến yếu tố giá cả song là những du khách có khả năng phát tán thông tin nhanh chóng và mạnh mẽ về điểm du lịch.
2. Đặc điểm và thói quen tiêu dùng:
Khách du lịch Nhật có khả năng chi trả cao.
Người Nhật Bản đi du lịch đông nhất vào một số thời điểm trong năm như: đầu năm mới, nghỉ Xuân tháng 3, tuần lễ vàng đầu tháng 5, lễ Obon vào tháng 8 và trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến cuối năm.
Thích những nơi có thiên nhiên hùng vĩ, núi cao, bãi biển trải dài nơi có thể tắm được quanh năm.
Thích những nơi có bề dày văn hóa lịch sử, họ muốn tìm hiểu và thích ăn uống. Người Nhật thường thích các city tour quanh Hà Nội nơi có rất nhiều món đặc sản, thích thưởng thức món ăn miền nam.
Họ thích những nơi mà người bản địa hiếu khách, cởi mở, thân thiện với môi trường, điều đó làm họ rất hài lòng.
Người Nhật đặc biệt thích mua sắm. Đặc biệt là phự nữ. Đã đi du lịch chắc chắn họ sẽ mua quà lưu niệm về cho người thân. Đó chính là một phong tục tập quán của họ.
Một bộ phận du khách Nhật (đặc biệt là giới trẻ) thường thích đi quán bar hoặc câu lạc bộ đêm sau bữa tối.
Người Nhật Bản đặc biệt thích tham gia vào các hoạt động tình nguyện hướng tới cộng đồng như phổ biến văn hóa Nhật Bản, vệ sinh đường phố, trồng cây, tuyên truyền phòng chống bệnh dịch
Cách tắm đặc biệt:
Khách du lịch nếu được hỏi sẽ chọn giữa phòng có bồn tắm và phòng chỉ có vòi hoa sen trừ khi họ là thanh niên. Cách tắm của người Nhật cũng rất đặc biệt (có thể nói là khác người). Họ ngâm mình trong bồn từ 5 đến 10 phút sau đó ra khỏi bồn kỳ cọ rồi lại vào bồn ngâm mình tiếp
Giày dép: Những đôi dép đi trong nhà là một trong những yêu cầu tối thiểu dành cho khách Nhật trong khách sạn thậm chí có người còn mang theo dép riêng nữa.
Một tour của họ thường kéo dài 7 ngày để 1 năm họ có 3 kỳ nghỉ.
Người Nhật không thích ở các tầng một, hai tầng trên cùng vì lý do an toàn.
Những nhu cầu khi đi du lịch:
Nhu cầu về phương tiện vận chuyển:
Khách Nhật thường có khả năng chi trả cao. Đối với những chuyến du lịch ra nước ngoài cho dù là dài ngày hay ngắn ngày hõ đều đi máy bay.
Nhu cầu lưu trú:
Người Nhật chi tiêu nhiều cho dịch vụ lưu trú. Họ thường ở kháchch sạn 3 đến 5 sao. Phòng ở khách sạn đòi hỏi phải có các trang thiết bị cao cấp, các trang thiết bị tự động, những vật dụng cá nhân phải có đầy đủ, phải đảm bảo vệ sinh tuyệt đối. Tầng 1 và 2 trên cùng của các khách sạn cao tầng thường không thích hợp với người Nhật vì lí do an toàn.
Nhu cầu về ăn uống:
Thích ăn các món ăn chế biến tử hải sản. Món đặc sản là cá sống. Khi ăn có bát nước chè bỏ thêm bông cúc để rửa tay. Trước khi ăn dùng khăn mặt bông quấn chặt cứng dài từ 15 – 20 cm hấp nóng để cho khách lau mặt.
Trong lĩnh vực ẩm thực nhât bản co nhiêu nét tương đồng với ẩm thực việt nam vì khi chế biến thức ăn không lạm dụng quá nhiều gia vị mà chú trọng làm nổi bật hương vị tươi ngon, tinh khiết tự nhiên của món ăn. Hương vị món ăn Nhật thường thanh tao, nhẹ nhàng và phù hợp với thiên nhiên từng mùa. Lương thực chính của người nhật cũng là gạo giống việt nam và các nước Châu Á. Người nhật rất thích ăn đồ ăn sống vì họ thích sự tươi ngon của hương vị thiên nhiên. Khác với ở việt nam đồ ăn được ché biến kĩ lưỡng và được đun chín. Tuy nhiên hiện nay thì các món ăn sống của nhật bản cũng dễ dàng được tìm thấy trong nhiều nhà hàng của việt nam. Người nhật cũng thích uống trà và họ có cả nghi lễ trà đạo và cách uống trà của họ cầu kì và phức tạp hơn của viêt nam.
Thích fast food, các loại bánh kẹo
Mỹ, thích rượu vang vùng California, thích thức uống Coca Cola.
Không có thói quen ăn uống cùng bàn với người lạ.
Trong nhà hàng người Nhât thích chia ra các khoảng nhỏ tạo sự ấm áp, gần gũi và giữ được khoảng cách cần thiết.
V. TIỀM NĂNG THỰC TRẠNG THU HÚT KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN:
1. Hiện trạng khách du lịch Nhật đến với Việt Nam:
Nhật Bản được đánh giá là một trong những thị trường khách có mức chi tiêu cao nhất thế giới và luôn là thị trường gửi khách tiềm năng của du lịch Việt Nam.
Trong năm 2012, khoảng 600.000 khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam, đứng thứ ba trong số các nước có nhiều người đi du lịch Việt Nam. Ước tính, trong 10 tháng qua trong năm 2013 có khoảng 500.000 lượt khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó họ thường có thời gian lưu trú dài ngày và chi tiêu tài chính cao hơn so với khách du lịch Hàn Quốc và Trung Quốc.
Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, từ năm 2005, việc hợp tác trong lĩnh vực du lịch giữa Việt Nam và Nhật Bản được thúc đẩy mạnh mẽ.
Giai đoạn 2003-2012, khách du lịch Nhật đến Việt Nam tăng 2,75 lần, đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 12%/năm.
Từ năm 2004, Việt Nam đã đơn phương miễn thị thực cho công dân Nhật du lịch Việt Nam, do vậy số khách Nhật ngày càng tăng.
Năm 2012, số lượng khách của xứ sở hoa anh đào chiếm 9% tổng số lượt khách quốc tế đến Việt Nam.
Cũng theo Tổng cục Du lịch, mặc dù khách du lịch Việt đến Nhật Bản số lượng còn ít nhưng đã có mức tăng trưởng mạnh trong những năm qua.
Riêng trong 8 tháng đầu năm 2013, số lượng khách du lịch Việt đến Nhật đã tăng 52% so với cùng kỳ năm ngoái.
Từ tháng 7, Nhật đã áp dụng cấp thị thực nhập cảnh nhiều lần cho công dân Việt Nam. Hiện, 4 thành phố lớn là Tokyo, Nagoya, Osaka, Fukuoka có đường bay thẳng tới Hà Nội và TP HCM.
Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam ông Nguyễn Văn Tuấn nhận định: “Càng ngày Nhật Bản càng trở thành thị trường hàng đầu của du lịch Việt Nam, sau Hàn Quốc và Trung Quốc”, và Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến 2020 tầm nhìn 2030 đã xác định Nhật Bản là thị trường trọng điểm, với tham vọng đón 1 triệu lượt du khách Nhật B