Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật TTHS. Đó là những quan hệ luôn có 1 bên là quyền lực cơ quan Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác tội phạm là hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng, do vậy trong tố tụng hình sự các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp cưởng chế để tác động tới đối tựợng. Đặc điểm chung của các biện pháp cưỡng chế là sự tác động một chiều không phụ thuộc vào ý trí của bên bị tác động xuất phát từ những căn cứ điều kiện do pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Và trong bài tiểu luận này e xin được đi sâu tìm hiểu về tạm giam trong tố tụng hình sự và hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này.
15 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2957 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu về tạm giam trong tố tụng hình sự và hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2
I. Khái quát chung về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
2
II. Các quy định hiện hành của luật tố tụng hình sự về vấn đề tạm giữ trong tố tụng hình sự
3
1. Khái niệm tạm giữ
3
2. Mục đích của biện pháp tạm giữ
3
3. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ
3
4. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
5
5. Thủ tục tạm giữ
5
6. Thời hạn tạm giữ
7
7. Chế độ tạm giữ
9
8. Những biện pháp bảo hộ đối với nhân thân và tài sản của người bị tạm giữ
9
III. Những đề xuất nhằm hoàn thiện những quy định về tạm giữ trong tố tụng hình sự
10
1. Về đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ
10
2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
11
3. Về thời hạn tạm giữ
11
4. Về gia hạn tạm giữ
12
5. Về việc trả tự do cho người bị tạm giữ
13
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
15
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật TTHS. Đó là những quan hệ luôn có 1 bên là quyền lực cơ quan Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác tội phạm là hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng, do vậy trong tố tụng hình sự các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp cưởng chế để tác động tới đối tựợng. Đặc điểm chung của các biện pháp cưỡng chế là sự tác động một chiều không phụ thuộc vào ý trí của bên bị tác động xuất phát từ những căn cứ điều kiện do pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Và trong bài tiểu luận này e xin được đi sâu tìm hiểu về tạm giam trong tố tụng hình sự và hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Khái quát chung về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Biện pháp ngăn chặn là một chế định pháp lý quan trọng của luật tố tụng hình sự, là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc diều tra, truy tố, xét xử cũng như để bảo đảm thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS), các biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.
Các quy định hiện hành của luật tố tụng hình sự về vấn đề tạm giữ trong tố tụng hình sự
Khái niệm tạm giữ
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.
Mục đích của biện pháp tạm giữ
Mục đích của tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra thu thập chứng cứ, tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người bị tạm giữ. Tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã để có thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt
Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ
Tạm giữ có thể được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã. Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ bao gồm:
Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường phải bị tạm giữ, vì trong hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó trốn hoặc cản trở điều tra.
Trong trường hợp người bị bắt khi phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra thì không cần phải tạm giữ.
Người phạm tội tự thú là người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị phát hiện nay ra trình báo với cơ quan có thẩm quyền về việc phạm tội của mình. Đây là người đã thực hiện tội phạm nhưng chưa bị cơ quan có thẩm quyền xác định đó là ai, mặc dù vụ án đã bị phát hiện hoặc chưa bị phát hiện, như các trường hợp: cơ quan bảo vệ pháp luật biết có vụ án xảy ra (đã hoặc chưa khởi tố vụ án) nhưng chưa biết ai là người thực hiện hành vi phạm tội; hoặc vụ án chưa phát hiện được do xảy ra trong rừng sâu.
Người phạm tội đầu thú là người đã thực hiện tội phạm và đã bị phát hiện; người đã bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt trốn khỏi nơi giam, giữ; người có nghĩa vụ phải chấp hành án phạt tù nhưng đã trốn khỏi nơi cư trú nay ra đầu thú. Đặc điểm chung của người đầu thú là cơ quan bảo vệ pháp luật đã biết: nhân thân của họ (như họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, quê quán, dân tộc, tôn giáo…) và họ phạm tội gì, trốn từ lúc nào. Thực chất của việc đầu thú là đầu hàng cơ quan pháp luật, biết không thể trốn mãi nên đã đến trình diện và khai báo với cơ quan nhà nước về sự việc phạm tội của mình và quá trình trốn tránh pháp luật để mong được hưởng sự khoan hồng, làm nhẹ tội.
Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan này đến nhận người bị bắt. Việc tạm giữ đối với người này chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ người nào bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, tự thú, đầu thú hoặc bắt theo quyết định truy nã đều bị ra lệnh tạm giữ. Nếu phạm tội ít nghiêm trọng, sự việc đơn giản, không có căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn, thông cung, cản trở việc điều tra hoặc tiếp tục việc phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng thì có thể không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng lấy lời khai, xác minh những tình tiết có liên quan đến hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội để làm căn cứ ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho người đó.
Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ. Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003
Như vậy có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm nhóm người sau đây:
- Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp ( cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao… )
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương ; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.
- Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Do đó, theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền.
à Những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang.
Thủ tục tạm giữ
Thủ tục tạm giữ gồm có: quyết định tạm giữ, các công việc mà người thi hành quyết định tạm giữ phải thực hiện trước hoặc sau khi tạm giữ người.
Việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ không có lệnh của người có thẩm quyền, người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Đồng thời để bảo đảm công tác giám sát giam giữ, tránh vi phạm quyền tự do, bất khả xâm phạm thân thể của công dân. Khi kiểm sát việc tạm giữ, nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hoặc không cần thiết, viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ hoặc trực tiếp ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ và yêu cầu cơ quan điều tra đã ra lệnh tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Còn nếu xét thấy việc tạm giữ có căn cứ hoặc cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn.
Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ hoặc tự mình ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:
Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú;
Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội khônh đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự;
Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện.
Bên cạnh đó, người thi hành quyết định tạm giữ phải có trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 48 BLTTHS 2003:
“2. Người bị tạm giữ có quyền:
Được biết lý do mình bị tạm giữ;
Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
Trình bày lời khai;
Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật.”
Thời hạn tạm giữ
Theo Điều 87 BLTTHS 2003, thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không được quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng không được quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người đã bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam. Việc tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không có quy định khác về thời hạn tạm giữ.
Theo các quy định nêu trên, cách tính thời hạn trong TTHS đã quy định khi tính thời hạn theo ngày tháng thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ, do vậy trong cách tính thời han tạm giữ, thời điểm ra lệnh tạm giữ chỉ có ý nghĩa để tính ngày bị tạm giữ chứ không có ý nghĩa tính giờ bị tạm giữ, nói cách khác mặc dù các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ vào lúc mấy giờ nhưng thời hạn tạm giữ chỉ hết vào lúc 24 giờ của ngày hết hạn. Việc BLTTHS quy định hai lần có thể gia hạn tạm giữ nhằm bảo đảm tính có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn làn, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp luật được tốt.
Trong quy định cũng như nhận thức về thời hạn tạm giữ cũng phát sinh một số vấn đề đòi hỏi cần có nhận thức thống nhất. Một số vấn đề cần giải thích kịp thời.
Thứ nhất: Theo quy định của Điều 87, thời hạn tạm giữ được tính từ thời điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Về khái niệm chúng ta thấy rằng, trong BLTTHS chỉ dung khái niệm Cơ quan điều tra để chỉ các cơ quan điều tra sau: Cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát, Cơ quan điều tra của lực lượng công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát. Nếu thời hạn tạm giữ chỉ được tính từ khi “cơ quan điều tra” nhận người bị bắt thì sẽ phát sinh hiện tượng có những cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ ( như chỉ huy đơn vi quân đội độc lập cấp trung đoàn, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giói, người chỉ huy máy bay, tàu bay trên biển khi máy bay tàu biển đã rời khỏi sân bay bến cảng ) nhưng quyết định tạm giữ của những cơ quan và những người đó lại không được tính thời hạn, quyết định tạm giữ của họ chỉ bắt đầu khi họ được giao người bị bắt và và bị tạm giữ đó cho “Cơ quan điều tra” có thẩm quyền. Như vậy ở đây phát sinh hiện tượng có cơ quan ra quyết định tạm giữ, có người bị tạm giữ nhưng quyết định tạm giữ của họ không được pháp luật điều chỉnh về mặt thời hạn. Quy định như Điều 87 BLTTHS 1988 rõ ràng mới chỉ điều chỉnh thời hạn tạm giữ của một trong bốn nhóm người có thẩm quyền ra quyểt định tạm giữ chứ chưa bao quát hết cả bốn nhóm người ra quyết định tạm giữ.
Thứ hai: Khoản 4 Điều 87 quy định thời hạn tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Quy định này có mục đích nhân đạo, do vậy cho phép nếu sau đó người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và họ tạm giam thì được trừ đi thời hạn họ đã bị tạm giữ vào thời hạn tam giam. Tuy nhiên sau này, nếu như người phạm tội bị Tòa án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt tù. Điều 33 BLHS 1999 quy định “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”. Đây là quy định mới rõ ràng hơn của so với BLHS năm 1985. Do vậy việc áp dụng luật cần được quán triệt để áp dụng đúng luật.
Chế độ tạm giữ
Bộ luật tố tụng hình sự quy định không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị tạm giữ là người chưa bị coi là có tội. Do đó, chế độ tạm giữ phải khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.
Tạm giữ không phải là hình phạt mà là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Việc áp dụng biện pháp tạm giữ không phải nhằm trừng trị người phạm tội mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội.
Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Điều 89 BLTTHS 2003
Bên cạnh đó, chế độ tạm giữ còn được quy định rõ ràng tại Nghị định số 89/1998/NĐ-CPn ngày 07/11/198 của Chính phủ ban hành về quy chế tạm giữ, tạm giam. Cụ thể ở các Điều 26, 28, 29, 30,31. Vì vây, các cơ quan chức năng quản lý các nhà tạm giữ có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam.
Những biện pháp bảo hộ đối với nhân thân và tài sản của người bị tạm giữ
Việc áp dụng biện pháp tạm giữ không chỉ trực tiếp động chạm đến quyền, lợi ích của người bị tạm giữ mà còn liên quan đến quyền và lợi ích của những người thân thích của họ. Để thực hiện chính sách nhân đạo và bảo đảm những lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, BLTTHS 2003 đã quy định về việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ. Cụ thể như sau:
Khi người bị tam giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tam giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom.
Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
Sau khi đã áp dụng những biện pháp bảo hộ đối với người nhân thân và tài sản của người bị tam giữ, tạm giam thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
Những đề xuất nhằm hoàn thiện những quy định về tạm giữ trong tố tụng hình sự
Tuy BLTTHS 2003 đã có sửa đổi bổ sung rất nhiều so với BLTTHS 1988, và đã có sự chặt chẽ hơn. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp tạm giữ vẫn còn nhỉều bất cập, đã gây không ít khó khăn cho những hoạt động áp dụng các quy định trên. Và dưới đây em xin được chỉ ra những điểm còn hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp tạm giữ trong tố tụng hình sự:
Về đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ
Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Mà như chúng ta đã biết, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt. Chính vì vậy, việc khoản 1 Điều 86 quy định “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã”. Vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là người bị bắt, điều này là không hợp lý. Do vậy, các nhà làm luật cần xem xét kỹ lưỡng và đưa ra những quy định rõ ràng, cụ thể, tách bạch trong trường hợp này để bảo đảm quyền và lợi ích cho người tự thú, đầu thú trong việc được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Hiện tại pháp luật quy định thêm cả chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003
Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng nào? Chính vì vậy, về lý luận cũng như trong thực tế áp dụng còn vướng mắc, cần sự quy định rõ ràng. Và khi đã quyết định cho chỉ huy trưởng, cảnh sát biển được quyền ra lệnh tạm giữ thì nên quy định thêm cho họ quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp để có thể làm rõ những trường hợp cụ thể và đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ theo thẩm quyền của người này.
Về thời hạn tạm giữ
Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “ Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt”
Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn còn nhiều vướng mắc
Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Và như chúng ta đã biết người phạm tội tự thú đầu thú không phải là người bị bắt mà họ tự nguyện trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là : thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Điều này chưa được pháp luật quy định.
Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày. Vậy câu hỏi đặt ra là từ “ngày” trong cụm từ “ba ngày” được hiểu như thế nào? Có bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này