1. LÝ DO CHỌN ĐỀTÀI 
Trải qua nhiều cuộc chiến tranh khó khăn làm cho nền kinh tế đất nước ta bị đình 
trệvà suy kiệt. Tuy nhiên, với đà tăng trưởng phát triển vượt bật, Việt Nam đang 
dần cải thiện nền kinh tếvới những mặt hàng xuất khẩu nhưgạo, cafe, cao su, dầu 
thô, dệt may, thủy sản . trong đó, ngành thủy sản được xem là một trong những 
ngành chủlực của đất nước và xuất khẩu cá tra, cá ba sa đang phát triển nhanh 
chóng, ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong ngành thuỷsản, đem lại công ăn 
việc làm cho hơn 500.000 lao động (2003). 
Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tếngày càng sâu rộng đã tạo ra các 
thách thức to lớn cho các quốc gia cùng với sựcạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường thếgiới. Kểtừkhi Việt nam bắt đầu hội nhập kinh tếthếgiới và chấp nhận 
những nguyên tắc của thương mại quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt 
Nam đang phải đối mặt với vô sốnhững hàng rào thương mại phi thuếquan ởcác 
nước nhập khẩu nhằm bảo hộ, hạn chếtựdo thương mại dưới nhiều hình thức như
chống bán phá giá, chống trợcấp, tựvệ làm giảm đáng kểhiệu quảcủa những nỗ
lực tìm kiếm, mởrộng, xúc tiến thịtrường và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất 
khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và khiến triển vọng xuất khẩu trởnên bấp 
bênh, tiêu biểu trong đó là ởthịtrường Mỹ. 
Mỹlà một nước phát triển với thịtrường rộng lớn, thu nhập đầu người cao vào 
loại bậc nhất thếgiới, vì vậy đây là thịtrường tiềm năng mà các doanh nghiệp xuất 
khẩu của Việt Nam hướng đến, đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại song 
phương được ký kết vào ngày 13/7/2000, bắt đầu có hiệu lực từtháng 12/2001 đã 
mởra một viễn cảnh tươi sáng cho nền thương mại của hai nước. 
Trong vài năm gần đây, cá ba sa và cá tra Việt Nam được nhập khẩu vào thị
trường Mỹdưới dạng philê đông lạnh đã góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụcá của 
người dân Mỹ, đồng thời thúc đẩy được nghềnuôi loại cá này ởViệt Nam, mang lại 
lợi ích cho cảhai quốc gia. Nhưng thật đáng tiếc, Hiệp hội các chủtrại nuôi cá nheo 
Mỹ đã sớm lo ngại vềsựxâm nhập ngày càng lớn mạnh của cá ba sa và cá tra vào 
thịtrường của họ đến mức đâm đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá 
các sản phẩm này vào thịtrường Mỹ. Sau một thời gian đấu tranh, kết luận cuối 
cùng của BộThương mại Mỹ(DOC) là có bằng chứng “ hiển nhiên “ chứng minh 
Việt Nam bán phá giá. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, kiện 
chống bán phá giá là một rào cản nguy hiểm bởi chúng có thểgây ra những thiệt hại 
lâu dài, trên diện rộng nếu không được đối phó hợp lý. Vì vậy, việc hiểu biết đầy đủ
và chủ động chuẩn bịphòng tránh, đối phó với các vụkiện chống bán phá giá là rất 
cần thiết. 
Từnhững phân tích trên, đềtài “Tìm hiểu vềvấn đềbán phá giá cá tra, cá ba sa 
của Việt Nam ởthịtrường Mỹ” được lựa chọn đểtìm hiểu với hy vọng đưa ra được 
những giải pháp giúp các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam chủ
động phòng ngừa và tích cực đối phó với các vụkiện chống bán phá giá của Mỹ đối 
với hoạt động xuất khẩu thuỷsản của Việt Nam vào thịtrường này trong thời gian 
tới. 
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung: 
Khái quát được tình hình xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam sang thịtrường 
Mỹ, đồng thời làm rõ đâu là sựthật của vấn đềbán phá giá của Việt Nam, từ đó đưa 
ra được những giải pháp nhằm góp phần phòng ngừa, hạn chếcác vụkiện chống bán 
phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam sang các 
nước nói chung và sang thịtrường Mỹnói riêng. 
2.2. Mục tiêu cụthể
- Tìm hiểu và phân tích thực trạng xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam 
sang thịtrường Mỹtrước khi bịkiện bán phá giá. 
- Tìm hiểu, đánh giá vềvấn đềbán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ởthị
trường Mỹvà tác động của nó tới tình hình xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam. 
- Đưa ra giải pháp góp phần phòng ngừa, hạn chếcác vụkiện chống bán phá 
giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam. 
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
3.1. Phạm vi vềkhông gian 
Do năng lực và thời gian có hạn nên đềtài chỉthực hiện trong phạm vi nghiên 
cứu vấn đềbán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ởthịtrường Mỹ. 
3.2. Phạm vi vềthời gian 
Thời gian thực hiện đềtài từ24/05/2010 đến 19/06/2010. 
Sốliệu sửdụng trong đềtài lấy từnăm 1999 đến 2009. 
3.3. Phạm vi vềnội dung 
Tìm hiểu vềvấn đềbán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ởthịtrường Mỹ. 
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
4.1. Phương pháp thu thập sốliệu 
Tổng hợp các thông tin, sốliệu thứcấp trên các phương tiện thông tin đại chúng: 
Báo chí, thời báo kinh tế, các trang web có liên quan 
4.2. Phương pháp phân tích 
- Mục tiêu 1: Sửdụng phương pháp thống kê mô tả đểmô tảtình hình xuất khẩu 
cá tra, cá ba sa của Việt Nam sang thịtrường Mỹ. 
- Mục tiêu 2: Sửdụng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá vềvấn đềbán 
phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ởthịtrường Mỹ. 
- Mục tiêu 3: Từmô tảvà phân tích trên để đưa ra giải pháp góp phần phòng 
ngừa, hạn chếcác vụkiện chống bán phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá 
tra, cá ba sa của Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7230 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá basa của Việt Nam ở thị trường Mỹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 1- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
PHẦN GIỚI THIỆU 
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Trải qua nhiều cuộc chiến tranh khó khăn làm cho nền kinh tế đất nước ta bị đình 
trệ và suy kiệt. Tuy nhiên, với đà tăng trưởng phát triển vượt bật, Việt Nam đang 
dần cải thiện nền kinh tế với những mặt hàng xuất khẩu như gạo, cafe, cao su, dầu 
thô, dệt may, thủy sản…. trong đó, ngành thủy sản được xem là một trong những 
ngành chủ lực của đất nước và xuất khẩu cá tra, cá ba sa đang phát triển nhanh 
chóng, ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong ngành thuỷ sản, đem lại công ăn 
việc làm cho hơn 500.000 lao động (2003). 
Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra các 
thách thức to lớn cho các quốc gia cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị 
trường thế giới. Kể từ khi Việt nam bắt đầu hội nhập kinh tế thế giới và chấp nhận 
những nguyên tắc của thương mại quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt 
Nam đang phải đối mặt với vô số những hàng rào thương mại phi thuế quan ở các 
nước nhập khẩu nhằm bảo hộ, hạn chế tự do thương mại dưới nhiều hình thức như 
chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ… làm giảm đáng kể hiệu quả của những nỗ 
lực tìm kiếm, mở rộng, xúc tiến thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh xuất 
khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và khiến triển vọng xuất khẩu trở nên bấp 
bênh, tiêu biểu trong đó là ở thị trường Mỹ. 
Mỹ là một nước phát triển với thị trường rộng lớn, thu nhập đầu người cao vào 
loại bậc nhất thế giới, vì vậy đây là thị trường tiềm năng mà các doanh nghiệp xuất 
khẩu của Việt Nam hướng đến, đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại song 
phương được ký kết vào ngày 13/7/2000, bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12/2001 đã 
mở ra một viễn cảnh tươi sáng cho nền thương mại của hai nước. 
Trong vài năm gần đây, cá ba sa và cá tra Việt Nam được nhập khẩu vào thị 
trường Mỹ dưới dạng philê đông lạnh đã góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cá của 
người dân Mỹ, đồng thời thúc đẩy được nghề nuôi loại cá này ở Việt Nam, mang lại 
lợi ích cho cả hai quốc gia. Nhưng thật đáng tiếc, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo 
Mỹ đã sớm lo ngại về sự xâm nhập ngày càng lớn mạnh của cá ba sa và cá tra vào 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 2- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
thị trường của họ đến mức đâm đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá 
các sản phẩm này vào thị trường Mỹ. Sau một thời gian đấu tranh, kết luận cuối 
cùng của Bộ Thương mại Mỹ (DOC) là có bằng chứng “ hiển nhiên “ chứng minh 
Việt Nam bán phá giá. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, kiện 
chống bán phá giá là một rào cản nguy hiểm bởi chúng có thể gây ra những thiệt hại 
lâu dài, trên diện rộng nếu không được đối phó hợp lý. Vì vậy, việc hiểu biết đầy đủ 
và chủ động chuẩn bị phòng tránh, đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá là rất 
cần thiết. 
Từ những phân tích trên, đề tài “Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa 
của Việt Nam ở thị trường Mỹ” được lựa chọn để tìm hiểu với hy vọng đưa ra được 
những giải pháp giúp các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam chủ 
động phòng ngừa và tích cực đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối 
với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này trong thời gian 
tới. 
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
2.1. Mục tiêu chung: 
Khái quát được tình hình xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam sang thị trường 
Mỹ, đồng thời làm rõ đâu là sự thật của vấn đề bán phá giá của Việt Nam, từ đó đưa 
ra được những giải pháp nhằm góp phần phòng ngừa, hạn chế các vụ kiện chống bán 
phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam sang các 
nước nói chung và sang thị trường Mỹ nói riêng. 
2.2. Mục tiêu cụ thể 
- Tìm hiểu và phân tích thực trạng xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam 
sang thị trường Mỹ trước khi bị kiện bán phá giá. 
- Tìm hiểu, đánh giá về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị 
trường Mỹ và tác động của nó tới tình hình xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam. 
- Đưa ra giải pháp góp phần phòng ngừa, hạn chế các vụ kiện chống bán phá 
giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam. 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 3- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
3.1. Phạm vi về không gian 
Do năng lực và thời gian có hạn nên đề tài chỉ thực hiện trong phạm vi nghiên 
cứu vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ. 
3.2. Phạm vi về thời gian 
Thời gian thực hiện đề tài từ 24/05/2010 đến 19/06/2010. 
Số liệu sử dụng trong đề tài lấy từ năm 1999 đến 2009. 
3.3. Phạm vi về nội dung 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ. 
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
4.1. Phương pháp thu thập số liệu 
Tổng hợp các thông tin, số liệu thứ cấp trên các phương tiện thông tin đại chúng: 
Báo chí, thời báo kinh tế, các trang web có liên quan… 
4.2. Phương pháp phân tích 
 - Mục tiêu 1: Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả tình hình xuất khẩu 
cá tra, cá ba sa của Việt Nam sang thị trường Mỹ. 
 - Mục tiêu 2: Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá về vấn đề bán 
phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ. 
 - Mục tiêu 3: Từ mô tả và phân tích trên để đưa ra giải pháp góp phần phòng 
ngừa, hạn chế các vụ kiện chống bán phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá 
tra, cá ba sa của Việt Nam. 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 4- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
PHẦN NỘI DUNG 
CHƯƠNG 1 
CƠ SỞ LÝ LUẬN 
1.1. KHÁI NIỆM CÁ TRA, CÁ BA SA 
1.1.1. Đối với Việt Nam 
Cá tra và ba sa phân bổ ở một số nước Ðông Nam Á như Campuchia, Thái Lan, 
Indonexia và Việt Nam, là hai loài cá nuôi có giá trị kinh tế cao. Cá tra được nuôi 
phổ biến hầu hết ở các nước Ðông Nam Á, là một trong các loài cá nuôi quan trọng 
nhất của khu vực này. Bốn nước trong hạ lưu sông Mê Kông đã có nghề nuôi cá tra 
truyền thống là Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam do có nguồn cá tra tự nhiên 
phong phú. 
Cá tra và cá ba sa là các loài cá đặc hữu của vùng châu thổ sông Mê Kông thuộc 
giống Pangasius, họ Pangasidae, bộ Silurifornes - bộ cá gồm hơn 2.500 loài cá da 
trơn, phân bổ trên khắp thế giới. Cụ thể là: 
- Đối với cá ba sa - tên khoa học Pangasius bocourti, tên thương mại Ba sa, 
Bocourti, Bocourti fish, Ba sa catfish, Bocourti catfish. 
- Đối với cá tra - tên khoa học: Pangasius hypophthalmus, tên thương mại: 
Swai, Striped catfish, Sutchi catfish. 
Còn cá da trơn nuôi ở Mỹ gồm hai loài cá nheo channel catfish (Ictalurus 
punctatus) và blue catfish (Ictalurus furcatus) thuộc họ Ictaluridae được nuôi trong 
các ao nước tĩnh ở các tiểu bang (Mississippi, Alabama, Arkansas và Louisiana) 
thuộc Đồng bằng sông Mississippi 
1.1.2. Đối với Mỹ 
- Năm 2002, Quốc hội Mỹ đã ra đạo luật không cho phép gọi cá tra hay ba sa 
nhập khẩu từ Việt Nam là “catfish”, chỉ có cá da trơn (cá nheo) của Mỹ mới được 
quyền ghi nhãn catfish, tạo điều kiện để ngư dân Mỹ cản trở cá của Việt Nam vào 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 5- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
thị trường nước này, buộc lòng các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi tên thành 
pangasius pish, cá ba sa thì có tên pangasius ba sa. 
- Tháng 5/2008, Quốc hội Mỹ đã thảo luận để thông qua “Đạo luật Nông trại” 
(Farm Bill). Theo Farm bill 2008 thì cá tra và cá ba sa Việt Nam có thể bị xếp vào 
trong nhóm catfish của Mỹ, điều mà trước đây chính họ, chứ không phải ai khác, đã 
đưa ra nhiều luận điểm để chứng minh là cá tra và cá ba sa của Việt Nam không 
thuộc dòng cá này. Điều này dẫn đến cá tra và cá ba sa của chúng ta nhập khẩu vào 
Mỹ sẽ phải chịu những kiểm tra đặc biệt, gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu trong 
nước. 
1.2. KHÁI NIỆM XUẤT KHẨU 
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất, nó phản 
ánh quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và 
thế giới. Cùng với hình thức kinh doanh nhập khẩu, hình thức kinh doanh xuất 
khẩu là hoạt động kinh tế cơ bản của một quốc gia, nó là “chiếc chìa khóa” mở ra 
những giao dịch kinh tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ 
chủ yếu của một nước khi tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế. 
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là một hoạt động kinh doanh quốc tế 
đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh 
nghiệp đã đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh của mình. 
Kinh doanh xuất nhập khẩu thường diễn ra các hình thức sau: Xuất khẩu hàng 
hóa hữu hình, hàng hóa vô hình (dịch vụ); xuất khẩu trực tiếp do chính các doanh 
nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đảm nhận; xuất khẩu gián tiếp (hay 
ủy thác) do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh doanh trung gian 
đảm nhận. Gắn liền với xuất khẩu hàng hóa hữu hình, ngày nay xuất khẩu dịch vụ 
rất phát triển.. 
1.3. KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ BÁN PHÁ GIÁ 
Điều 2.1 Hiệp định Chống bán phá giá (ADA) của WTO: "…một hàng hóa được 
coi là bị bán phá giá, có nghĩa là được đưa vào thị trường của nước khác ở mức thấp 
hơn giá trị thông thường, nếu giá xuất khẩu của một hàng hóa được xuất khẩu từ một 
nước sang một nước khác thấp hơn giá có thể so sánh được, trong điều kiện thương 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 6- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
mại thông thường, là giá của hàng hóa tương tự được bán để tiêu dùng tại nước xuất 
khẩu đó.” 
Điều 3.1 Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (Pháp 
lệnh chống bán phá giá): “Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là 
bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn 
giá trị thông thường…” 
Tóm lại, có 3 cách xác định bán phá giá: 
Thứ 1: Giá xuất khẩu của sản phẩm nhỏ hơn giá trị thông thường của sản phẩm 
tương tự được tiêu thụ tại nước xuất khẩu. 
Thứ 2: Giá xuất khẩu của sản phẩm nhỏ hơn mức giá có thể so sánh được của sản 
phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ ba thích hợp. 
Thứ 3: Giá xuất khẩu của sản phẩm nhỏ hơn trị giá cấu thành. 
Nếu trường hợp nước xuất khẩu là có nền kinh tế phi thị trường thì bán phá giá 
được xác định bằng cách so sánh giá xuất khẩu với giá trị cấu thành của hành hóa 
tương tự được sản xuất tại nước thứ 3 có nền kinh tế thị trường và nước đó phát triển 
tương đương. 
Để áp dụng được biện pháp chống bán phá giá, cơ quan điều tra phải trải qua một 
cuộc điều tra kỹ lưỡng và phải chứng minh được đủ ba điều kiện: 
- Có bán phá giá và biên độ bán phá giá cụ thể (“xác định bán phá giá”) 
- Ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự trong nước nhập khẩu bị 
thiệt hại một cách đáng kể hoặc bị đe dọa gây thiệt hại một cách đáng kể hoặc 
việc bán phá giá gây khó khăn cho việc hình thành một ngành sản xuất trong 
nước (“xác định thiệt hại”) 
- Thiệt hại mà ngành sản xuất trong nước phải gánh chịu xảy ra hoặc bị 
đe dọa xảy ra là do hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá gây ra (“xác định mối 
quan hệ nhân quả”) 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 7- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
CHƯƠNG 2 
TÌM HIỂU, ĐÁNH GIÁ VỀ VẤN ĐỀ BÁN PHÁ GIÁ CÁ TRA, 
CÁ BA SA Ở MỸ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI TÌNH HÌNH 
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 
2.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÁ TRA, CÁ BA SA CỦA VIỆT NAM 
TRƯỚC VÀ SAU KHI BỊ KIỆN BÁN PHÁ GIÁ (1999 – 2009) 
2.1.1. Trước khi bị kiện bán phá giá (1999-2001) 
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra và cá ba sa sang Mỹ từ năm 1996. Năm 1998, 
khi gia nhập APEC, sản phẩm cá da trơn phi lê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu 
sang đây mới chỉ đạt 260 tấn, nhưng đến năm 2000, lượng hàng này tăng vọt lên hơn 
3.000 tấn và đến năm 2001 thì đã đạt con số kỷ lục: xấp xỉ 8.000 tấn. Sản phẩm cá 
tra, cá ba sa philê do Việt Nam sản xuất được người tiêu dùng Mỹ đặc biệt ưa 
chuộng do chất lượng ngon, giá thành hạ. Việc gia tăng nhanh chóng này ngoài lý 
do là hàng rào thuế quan đối với sản phẩm thủy sản gần như đã được bãi bỏ (khi 
thuế nhập khẩu chỉ là 0%) còn có lý do nguồn cung cấp cá tra, cá ba sa tăng nhanh 
chóng sau khi Việt nam đã thành công trong việc ứng dụng kỹ thuật sản xuất giống 
nhân tạo trên cả hai đối tượng cá tra, cá ba sa và kỹ thuật nuôi cá tra thịt trắng. 
Bảng 1: GIÁ VÀ SẢN LƯỢNG CÁ DA TRƠN TẠI MỸ 1999-2001 
 Đơn vị 1999 2000 2001 
Giá cá phi lê 
Việt Nam $/Kg 4,53 3,38 2,80 
Giá cá phi lê Mỹ $/Kg 6,13 6,29 5,80 
Nhập khẩu từ 
Việt Nam Tấn 900 3.150 7.650 
(Bài viết “Hội nhập kinh tế thế giới – Bài học từ cuộc chiến cá da trơn” TS. Nguyễn Minh Đức, 
Khoa Thủy Sản, ĐH Nông Lâm TPHCM năm 2008) 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 8- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
Tuy nhiên, mặc dù diện tích nuôi được mở rộng, năng suất, sản lượng và kim 
ngạch xuất khẩu luôn tăng qua từng năm song nghề nuôi cá tra và cá ba sa vẫn chưa 
thật sự ổn định và bền vững. Trong sản xuất vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về ô nhiễm 
môi trường, biến động về thị trường, giá cả. 
Ngoài khó khăn do không dự báo được tình hình thị trường khiến hiện tượng ùn 
tắc nguyên liệu xảy ra trong thời gian gần đây, hoạt động sản xuất và tiêu thụ cá tra, 
cá ba sa vẫn còn những vấn đề cần sớm được giải quyết như: tỷ lệ sản phẩm có giá 
trị gia tăng còn thấp, chủ yếu mới chỉ xuất khẩu ở dạng filê cấp đông đơn thuần nên 
giá xuất khẩu không cao (bình quân 3USD/kg); thiếu kho chứa hàng, thiếu các chợ 
đầu mối thủy sản tập trung để làm cầu nối ổn định giá cho cả người sản xuất và các 
nhà máy chế biến; hệ thống xử lý nước thải và các công trình bảo vệ môi trường tuy 
đã được đầu tư nhưng chưa thường xuyên được nâng cấp nên vẫn còn tình trạng 
nước thải từ nhà máy đổ trực tiếp ra sông mà chưa qua xử lý; chưa phổ biến rộng 
khắp quy trình sản xuất sạch theo tiêu chuẩn HACCP; vẫn còn việc mua bán và sử 
dụng hóa chất, kháng sinh… 
2.1.2. Sau khi bị kiện bán phá giá (2001-2009) 
Ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng kể từ ngày 28/06/2002, khi Hiệp hội chủ trại 
nuôi cá da trơn Mỹ (CFA) đệ đơn lên Uỷ ban Hiệp thương Quốc tế Mỹ (ITC) và Bộ 
Thương mại Mỹ (DOC) kiện một số doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá mặt hàng 
này vào Mỹ, thì lượng nhập khẩu ca tra, cá ba sa của Việt Nam xuất khẩu vào thị 
trường Mỹ đã giảm tới 40% (từ 7.650 tấn năm 2001 xuống còn 4.500 tấn năm 2002) 
và khi bắt đầu bị đánh thuế chống bán phá giá với mức thuế suất rất cao 64% thì 
lượng xuất khẩu chỉ còn 1.800 tấn. 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 9- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
Bảng 2: GIÁ VÀ SẢN LƯỢNG CÁ DA TRƠN TẠI MỸ 1999-2005 
 Đơn 
vị 
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 
Giá cá phi lê 
Việt Nam 
$/Kg 4,53 3,38 2,80 2,87 2,69 2,56 2,07 
Giá cá phi lê 
Mỹ 
$/Kg 6,13 6,29 5,80 5,31 5,36 5,82 5,93 
Thuế chống 
phá giá 
$/Kg -- -- -- -- 0,64 0,61 0,49 
Nhập khẩu từ 
Việt Nam 
Tấn 900 3.150 7.650 4.500 1.800 3.150 7.650 
(Bài viết “HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI – BÀI HỌC TỪ CUỘC CHIẾN CÁ DA TRƠN của TS. 
Nguyễn Minh Đức, Khoa Thủy Sản, ĐH Nông Lâm TPHCM) 
Mất tỷ trọng xuất khẩu trên thị trường Mỹ, đối với Việt Nam sẽ là một đòn giáng 
vào một trong những nước nghèo nhất Châu Á hiện nay. Phán quyết cuối cùng của 
Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ hôm 24/7/2003 một lần nữa lại khiến hàng vạn ngư 
dân vùng đồng bằng sông Cửu Long mất nghề và không có nghề sinh nhai do chưa 
có điều kiện làm nghề khác. Điều này không chỉ đúng với các chủ trại nuôi cá mà 
còn đúng với các lao động làm thuê trong các bè và hầm cá do đây là nghề truyền 
thống đã có từ lâu của họ. Việc thay đổi nghề không phải một sớm một chiều mà 
làm được nhất là khi thị trường đầu ra cho sản phẩm mới còn chưa được định hình. 
Để hình thành một nghề cần phải có thời gian. Bà con nông dân cần được hỗ trợ về 
mặt kỹ thuật, con giống và cơ chế vay vốn. Đó là chưa kể đến hàng vạn người khác 
sống phụ thuộc vào nghề nuôi cá tra và cá ba sa, như công nhân trong các nhà máy 
chế biến, lao động trong khu vực kỹ thuật dịch vụ nghề nuôi, các doanh nghiệp cung 
cấp thức ăn và vật liệu nuôi cá. Có nhiều gia đình sẽ trở thành con nợ lâu dài và khó 
trả. Họ đã vay mượn rất nhiều để đầu tư vào bè, hầm, với mong muốn được thay đổi 
cuộc sống. Nếu phải từ bỏ nghề này, rất nhiều gia đình sẽ lâm vào cảnh túng thiếu 
và nợ nần. Phán quyết hôm 24/7/2003 cũng làm cho nhiều doanh nghiệp chế biến và 
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 10- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
xuất khẩu cá tra và cá ba sa coi thị trường Mỹ là thị trường xuất khẩu chủ lực lâm 
vào cảnh khốn đốn. 
Kết luận của ITC đã gây ra một tổn thương nặng nề cho quá trình thực hiện Hiệp 
định thương mại song phương Việt – Mỹ ký ngày 13/7/2000, có hiệu lực từ tháng 
12/2001. Một lần nữa nước lớn lại “đúng” trong buôn bán với nước nhỏ mà không 
cần biết đến các cam kết hay thoả thuận mà chính mình đã xây dựng và ký kết, và 
chẳng biết đến bao giờ nông dân và người nghèo ở các nước đang phát triển mới có 
thể có một cơ chế thương mại công bằng? 
Tuy nhiên, cá tra, cá ba sa lại là một sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm cá 
nheo tại thị trường Mỹ. Do đó, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn ở thị trường Mỹ kể từ 
khi bị áp đặt thuế chống bán phá giá, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vẫn cố 
trụ vững, vượt qua khó khăn để tiếp tục đưa cá tra, cá ba sa đến với người tiêu dùng 
Mỹ. Điều đó được thể hiện qua sản lượng nhập khẩu tăng lên từ 1.800 tấn năm 2003 
(năm đầu tiên bị áp thuế chống bán phá giá) thành 3.150 tấn năm 2004 và lên 7.650 
tấn năm 2005 
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đã có một biện pháp mới để cứu cho ngành nuôi 
trồng cá tra, cá ba sa. Bằng cách tăng cường tìm kiếm thị trường mới, ngày càng đa 
dạng hóa thị trường xuất khẩu, chúng ta đã hạn chế được những khó khăn khi mất đi 
lợi thế ở thị trường Mỹ, góp phần giúp kim ngạch xuất khẩu cá tra, cá ba sa tăng dần 
qua các năm. Trong đó, EU là khu vực xuất khẩu cá tra, ba sa lớn nhất của Việt 
Nam, chiếm 45,10% về lượng (Tây Ban Nha, Ba Lan, Hà Lan, Đức…là những nhà 
nhập khẩu chính mặt hàng này tại khu vực EU). 
Bảng 3: SẢN LƯỢNG VÀ KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CÁ TRA, CÁ BA SA 
QUA CÁC NƯỚC NĂM 2006-2009 
Năm Đơn vị tính 2006 2007 2008 2009 
Sản lượng xuất khẩu Tấn 250.000 383.200 500.000 499.000 
Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 750 974,12 1200 1.112 
( Tổng hợp từ:   
Tìm hiểu về vấn đề bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam ở thị trường Mỹ 
GVHD: Nguyễn Hồ Anh Khoa -Trang 11- SVTH: Nguyễn Thanh Duy 
Hình 1: Các thị trường xuất khẩu cá tra, ba sa của Việt Nam, tháng 1-4/2006 
(Nguồn:  bài “Cá tra, cá basa Việt Nam trên thị trường Nga-EU”, 
 ngày 14/7/20006) 
Năm 2006, sản lượng cá tra, ba sa xuất khẩu của cả nước đạt khoảng 250.000 tấn, 
với trị giá khoảng 750 triệu USD; nhưng đến năm 2007, tổng lượng cá tra, ba sa 
xuất khẩu tăng lên thành 383,2 nghìn tấn với kim ngạch đạt 974,12 triệu USD; kim 
ngạch xuất khẩu cá tra đạt sản lượng trên 500.000 tấn với giá trị vượt 1,2 tỉ USD 
trong năm 2008. Nhưng đến năm 2009, sản lượng xuất khẩu chỉ còn 499.000 tấn, trị 
giá 1,112 tỷ USD do khủng hoảng kinh tế xảy ra ở các thị trường lớn như EU, 
ASEAN, Mỹ. Tuy nhiên, dự tính đến năm 2010, lượng xuất khẩu đạt 600.000 tấn, 
giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD. Hiện nay chúng ta có khá nhiều doanh 
nghiệp xuất khẩu cá tra, cá ba sa, trong đó 4 công ty xuất khẩu lớn nhất (chiếm 60% 
sản phẩm xuất khẩu) của Việt Nam gồm: Công ty XNK Thủy sản An Giang 
(Agifish); Công ty Nông súc sản Cần Thơ (Cataco); Công ty TNHH Nam Việt Fish