Đề tài Tình hình bệnh viêm đường sinh dục và thử nghiêm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại trang trại chăn nuôi Bùi Huy Hạnh, thuộc xã Tái Sơn – Tứ Kỳ - Hải Dương

Trong vài năm gần đây, chăn nuôi lợn giữ một vị rí quan trọng trong nghành nông nghiệp của Việt Nam. Con lợn được xếp hàng đầu trong số các vật nuôi, cung cấp phần lớn thực phẩm cho nhân dân và phân bón cho sản xuất nông nghiệp. Ngày nay chăn nuôi lợn còn có tầm quan trọng đặc biệt nữa là tăng kim ngạch xuất khẩu, đây cũng là nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Để cung cấp lợn giống cho nhu cầu chăn nuôi của các trang trại và các nông hộ thì việc phát triển đàn lợn nái sinh sản là việc làm cần thiết. Tuy vậy, một trong những trở ngại lớn nhất của chăn nuôi lợn nái sinh sản là dịch bệnh xảy ra còn phổ biến gây nhiều thiệt hại cho đàn lợn nái nuôi tập trung trong các trang trại cũng như nuôi tập trung ở gia đình. Đối với lợn nái, nhất là lợn ngoại được chăn nuôi theo phương thức công nghiệp thì các bệnh về sinh sản xuất hiện khá nhiều do khả năng thích nghi của đàn lợn nái ngoại với điều kiện khí hậu nước ta còn kém. Mặt khác, trong quá trình sinh đẻ, lợn nái dễ bị các loại vi khuẩn như Streptococcus, Staphylococcus, E.coli xâm nhập và gây một số bệnh nhiễm trùng sau đẻ như viêm âm đạo, viêm âm môn, đặc biệt hay gặp là bệnh viêm tử cung, đây là bệnh ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của lợn mẹ. Nếu không diều trị kịp thời, viêm tử cung có thể dẫn tới các bệnh kế phát như: viêm vú, mất sữa, rối loạn sinh sản, chậm sinh, vô sinh, viêm phúc mạc dẫn đến nhiễm trùng huyết và chết Vì vậy, các bệnh viêm đường sinh dục, đặc biệt là bệnh viêm tử cung ở lợn nái ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đàn lợn giống nói riêng, dồng thời ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả toàn nghành chăn nuôi lợn nói chung. Để góp phần vào việc phòng và điều trị bệnh viêm tử cung lợn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tình hình bệnh viêm đường sinh dục và thử nghiêm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại trang trại chăn nuôi Bùi Huy Hạnh, thuộc xã Tái Sơn – Tứ Kỳ - Hải Dương”.

doc64 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3356 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình bệnh viêm đường sinh dục và thử nghiêm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại trang trại chăn nuôi Bùi Huy Hạnh, thuộc xã Tái Sơn – Tứ Kỳ - Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I MỞ ĐẦU 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ. Trong vài năm gần đây, chăn nuôi lợn giữ một vị rí quan trọng trong nghành nông nghiệp của Việt Nam. Con lợn được xếp hàng đầu trong số các vật nuôi, cung cấp phần lớn thực phẩm cho nhân dân và phân bón cho sản xuất nông nghiệp. Ngày nay chăn nuôi lợn còn có tầm quan trọng đặc biệt nữa là tăng kim ngạch xuất khẩu, đây cũng là nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Để cung cấp lợn giống cho nhu cầu chăn nuôi của các trang trại và các nông hộ thì việc phát triển đàn lợn nái sinh sản là việc làm cần thiết. Tuy vậy, một trong những trở ngại lớn nhất của chăn nuôi lợn nái sinh sản là dịch bệnh xảy ra còn phổ biến gây nhiều thiệt hại cho đàn lợn nái nuôi tập trung trong các trang trại cũng như nuôi tập trung ở gia đình. Đối với lợn nái, nhất là lợn ngoại được chăn nuôi theo phương thức công nghiệp thì các bệnh về sinh sản xuất hiện khá nhiều do khả năng thích nghi của đàn lợn nái ngoại với điều kiện khí hậu nước ta còn kém. Mặt khác, trong quá trình sinh đẻ, lợn nái dễ bị các loại vi khuẩn như Streptococcus, Staphylococcus, E.coli…xâm nhập và gây một số bệnh nhiễm trùng sau đẻ như viêm âm đạo, viêm âm môn,…đặc biệt hay gặp là bệnh viêm tử cung, đây là bệnh ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của lợn mẹ. Nếu không diều trị kịp thời, viêm tử cung có thể dẫn tới các bệnh kế phát như: viêm vú, mất sữa, rối loạn sinh sản, chậm sinh, vô sinh, viêm phúc mạc dẫn đến nhiễm trùng huyết và chết…Vì vậy, các bệnh viêm đường sinh dục, đặc biệt là bệnh viêm tử cung ở lợn nái ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đàn lợn giống nói riêng, dồng thời ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả toàn nghành chăn nuôi lợn nói chung. Để góp phần vào việc phòng và điều trị bệnh viêm tử cung lợn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tình hình bệnh viêm đường sinh dục và thử nghiêm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại trang trại chăn nuôi Bùi Huy Hạnh, thuộc xã Tái Sơn – Tứ Kỳ - Hải Dương”. 1.2. MỤC ĐÍCH. - Điều tra tình hình chăn nuôi, vệ sinh phòng bệnh của trại. - Điều tra tình hình mắc bệnh viêm đường sinh dục, viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại trang trại. - Thử nghiệm một số phác đồ điều trị viêm tử cung và rút ra phác đồ điều trị tốt hơn. 1.3. YÊU CẦU. - Điều tra tình hình chăn nuôi của trại - Thử nghiêm điều trị viêm tử cung và so sánh với phác đồ điều trị của cơ sở làm đối chứng, từ đó rút ra phác đồ điều trị tốt hơn. - Làm tốt các thao tác thú y. Phần II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. ĐẶC ĐIỂM SINH SẢN CỦA LỢN NÁI. 2.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục cái. Cũng giống như các loài gia súc khác, cơ quan sinh dục của lợn cái gồm: bộ phận sinh dục bên ngoài và bộ phận sinh dục bên trong. 2.1.1.1. Bộ phận sinh dục bên ngoài gồm: âm môn, âm vật và tiền đình. * Âm môn, hay còn gọi là âm hộ (Vulva), nằm dưới hậu môn. Bên ngoài có hai môi (Labia vulvae). Nối liền hai môi bằng hai mép (Bima vulvae). Bờ trên hai môi của âm môn có sắc tố đen, nhiều tuyến tiết chất nhờn và tuyến tiết mồ hôi. * Âm vật (Clitoris), giống như dương vật được thu nhỏ lại. Bên trong có các thể hổng. Trên âm vật có nếp da tạo ra mu âm vật (Praepatium clitoridis). * Tiền đình (Vestibulum vaginae sinus progenitalis), là giới hạn giữa âm môn và âm đạo. Trong tiền đình có màng trinh, phía trước màng trinh là âm môn, phía sau màng trinh là âm đạo. Màng trinh có các sợi đàn hồi ở giữa và do hai lá niêm mạc gấp thành một nếp. Sau màng trinh có lỗ niệu đạo. 2.1.1.2. Bộ phận sinh dục bên trong gồm: âm đạo, tử cung, buồng trứng và ống dẫn trứng. * Âm đạo (Vagina), trước là cổ tử cung, phía sau là tiền đình có màng trinh (Hymen) che lỗ âm đạo. Âm đạo là một ống tròn để chứa cơ quan sinh dục khi giao phối, đồng thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ. Cấu tạo âm đạo chia ba lớp: ▪ Lớp liên kết: ở ngoài. ▪ Lớp cơ trơn: cơ dọc ở ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm đạo liên kết với các cơ ở cổ tử cung. ▪ Lớp niêm mạc: có nhiều tế bào thượng bì, gấp nếp dọc hai bên nhiều hơn ở giữa. * Tử cung (Uterus): có cấu tạo phù hợp với chức năng phát triển và dinh dưỡng bào thai. Trứng được thụ tinh ở ống dẫn trứng rồi trở về tử cung làm tổ, ở đây hợp tử phát triển là nhờ chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ thông qua lớp niêm mạc tử cung cung cấp. Tử cung còn có nhiệm vụ đẩy thai ra ngoài trong quá trình sinh đẻ nhờ vào các lớp cơ. Tử cung được cấu tạo bởi 3 lớp: ▪ Ngoài cùng là tổ chức liên kết (Perimetrium) ▪ Lớp cơ trơn (Myometrium): giữ vai trò quan trọng trong việc đẩy thai ra ngoài. Nó là lớp cơ trơn khỏe nhất trong cơ thể. Bên trong các cơ trơn có những sợi liên kết đàn hồi và tĩnh mạch lớn. Các lớp cơ đó đan vào nhau làm cho tử cung chắc, tính đàn hồi cao. ▪ Lớp niêm mạc tử cung (Endometrium): màu hồng, được phủ lên bằng những tế bào biểu mô kéo dài thành lông nhung. Xen kẽ giữa các tế bào biểu mô là các tuyến tiết chất nhầy. Chất nhầy được gạt về cổ tử cung khi các lông rung động. Tử cung của lợn thuộc loại tử cung phân nhánh (Uterus Bicorus). Tử cung được chia làm ba phần: cổ, thân và sừng tử cung. Sừng tử cung thông với ống dẫn trứng. Cổ tử cung thông với âm đạo. Tử cung nằm trong xoang chậu, phía trên là trực tràng, phía dưới là bàng quang. Tử cung lợn rất dài, trong đó thân tử cung ngắn, hai sừng tử cung dài. Cổ tử cung lợn dài, tròn, không có gấp nếp dễ cho thụ tinh nhân tạo hơn trâu bò. * Buồng trứng (Ovarium), gồm một đôi. Bên ngoài là một lớp màng liên kết sợi chắc như màng bao dịch hoàn, bên trong chia làm hai miền: miền vỏ và miền tủy, hai miền đó được cấu tạo bằng lớp mô liên kết sợi xốp tạo ra cho buồng trứng một chất đệm (Stromaovaris). Ở miền tủy có nhiều mạch máu và tổ chức xốp cũng dày hơn. Miền vỏ có tác dụng về sinh dục vì ở đó xảy ra quá trình trứng chín và rụng trứng. * Ống dẫn trứng: còn gọi là vòi Fallop, nằm ở màng treo buồng trứng. Khi có tinh trùng vào đường sinh dục của gia súc cái, tế bào trứng có thể bị đứng lại ở các đoạn khác nhau của ống dẫn trứng. Ống dẫn trứng được chia thành hai đoạn: ▪ Đoạn ống dẫn trứng phía buồng trứng: phần đầu trên thông với xoang bụng ở gần buồng trứng, được phát triển to tạo thành một cái phễu để hứng tế bào trứng. Loa kèn có nhiều tua, nhung mao rung động để hứng tế bào trứng. Quá trình thụ tinh thường xảy ra khi trứng và tinh trùng gặp nhau ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng. ▪ Đoạn ống dẫn trứng phía sừng tử cung: gắn với mút sừng tử cung. Đoạn này phía ngoài là lớp liên kết sợi, được kéo dài từ màng treo buồng trứng. Ở giữa là hai lớp cơ, cơ vòng phía trong, cơ dọc phía ngoài. Trong cùng là lớp niêm mạc làm nhiệm vụ tiết niêm dịch. Phía trên lớp niêm mạc có lớp nhung mao luôn rung động để đẩy tế bào trứng hay hợp tử xuống tử cung làm tổ. Cấu tạo ống dẫn trứng (vòi Fallop) gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu mở ra để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để tăng diện tích tiếp xúc với buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng chiếm khoảng 1/2 chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo nối tiếp sừng tử cung, nó có thành dày hơn phần rộng và ít nếp gấp hơn. Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận chuyển trứng và tinh trùng đến nơi thụ tinh trong ống dẫn trứng (1/3 phía trên ống dẫn trứng), tiết các chất để nuôi dưỡng trứng, duy trì sự sống và gia tăng khả năng sống của tinh trùng, tiết các chất nuôi dưỡng phôi trong vài ngày trước khi phôi đi vào tử cung 2.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục lợn cái. 2.1.2.1. Sự thành thục về tính. Khi cơ quan sinh dục của gia súc cái phát triển đến mức độ hoàn thiện, buồng trứng có bao noãn chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ thai, tử cung biến đổi theo, đủ điều kiện cho thai phát triển trong tử cung. Những dấu hiệu động dục xuất hiện đối với gia súc như vậy gọi là sự thành thục về tính và sự thành thục về tính thường đến sớm hơn sự thành thục về thể vóc. Theo A.A Xuxoep (1985) [1] sự thành thục của gia súc được đặc trưng bởi những thay đổi bên trong và bên ngoài cơ thể, đặc biệt là sự biến đổi bên trong của cơ quan sinh dục. Tuỳ thuộc vào từng loài gia súc khác nhau mà thời gian thành thục về tính khác nhau. Tuổi thành thục về tính của lợn khoảng 6 tháng, giới hạn dao động từ 4–8 tháng. Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11] ở lợn tuổi thành thục tính là 6–8 tháng. Mặt khác, tuổi thành thục tính sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc. Vì vậy để đảm bảo sự sinh trưởng và phẩm chất giống ở thế hệ sau nên cho gia súc giao phối sau khi đã hoàn toàn thành thục về tính và trước thời gian thành thục về thể vóc. Tuy nhiên, không nên cho lợn phối giống quá muộn vì nó ảnh hưởng đến thế hệ sau của chúng. Theo Phạm Hữu Doanh– Lưu Kỳ (1994) [6] thì tuổi phối giống lần đầu cho lợn cái tốt nhất là lúc 8 tháng tuổi và khối lượng là ≥ 70 kg hoặc ở 9 tháng tuổi với khối lượng là 80 – 90 kg. Các yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thành thục tính: * Giống: các giống gia súc khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau, sự thành thục về tính ở những gia súc có tầm vóc nhỏ thường sớm hơn gia súc có tầm vóc lớn. Các giống lợn nội tuổi thành thục về tính là 4 – 5 tháng, các giống lợn Landrace, Yorkshire tuổi thành thục về tính là 6-7 tháng. Theo Phạm Hữu Doanh và cộng sự (1985) thì tuổi thành thục tính ở lợn lai muộn hơn lợn cái nội thuần chủng (Ỉ, Móng Cái ) thường ở tháng thứ 4, thứ 5 (120 – 150 ngày tuổi). Lợn F1 thường động dục lần đầu ở 6 tháng tuổi, lợn ngoại 6 – 8 tháng tuổi. * Dinh dưỡng và cách thức nuôi dưỡng: Nguyễn Tấn Anh (1998) [3], cho biết kinh nghiệm từ thực tiễn chăn nuôi Hoa Kỳ, để duy trì năng suất sinh sản cao thì cần chú ý tới nhu cầu dinh dưỡng và cách thức nuôi dưỡng. Cho ăn tự do đến khi đạt khối lượng 80-90 kg, sau đó cho ăn hạn chế đến lúc phối giống (ở chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3). Hoặc có thể điều chỉnh để khối lượng cơ thể đạt 120 – 140 kg ở chu kỳ động dục thứ 3 và cho phối giống. Trước phối giống 14 ngày cho ăn chế độ kích dục, tăng lượng thức ăn từ 1 – 1,5 kg, có bổ sung khoáng và sinh tố chỉ trong 14 ngày, sẽ giúp lợn nái ăn được nhiều hơn và tăng số trứng rụng từ 2 – 2,1 trứng / lần động dục / nái. * Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính của lợn cái hậu bị: Cách ly lợn cái hậu bị (ngoài 5 tháng tuổi) khỏi lợn đực sẽ dẫn đến làm chậm trễ sự thành thục so với những lợn cái hậu bị cùng độ tuổi được tiếp xúc với con đực. Theo Paul Hughes (1996) [1], nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với lợn đực 2 lần/ngày với thời gian từ 15 – 20 phút/lần thì 83% lợn nái (ngoài 90 kg thể trọng) động dục lúc 165 ngày tuổi. 2.1.2.2. Chu kỳ động dục (chu kỳ tính). Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể con cái đặc biệt là cơ quan sinh dục có sự biến đổi, đồng thời có rụng trứng, trứng phát triển nhờ quá trình điều khiển của hocmon thùy trước tuyến yên làm trứng chín và rụng một cách có chu kỳ, con vật biểu hiện bằng những triệu trứng động dục theo chu kỳ được gọi là chu kỳ tính (K.Sato và Junichi Mori, 1992). Chu kỳ tính có sự khác nhau giữa các loài, thời gian kéo dài chu kỳ giữa các loài cũng có sụ khác nhau. Ở thời gian đầu, do mới có sự thành thục về tính nên chu kỳ chưa ổn định, phải sau 2 – 3 chu kỳ tiếp sau mới có được sự ổn định. Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11], lợn động dục không theo mùa, chu kỳ sinh dục thường 21 ngày, thời gian dao động từ 18 – 22 ngày. Nguyễn Văn Thành (2002) [13] cho rằng: chu kỳ động dục của lợn liên quan chặt chẽ với quá trình điều hòa kích tố trong cơ thể, và chịu sự điều khiển của hệ thống thần kinh thể dịch. Chu kỳ động dục là khoảng thời gian giữa 2 lần động dục và nó được chia làm 4 giai đoạn sau: Giai đoạn trước động dục (preoestrus). Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục, nó xuất hiện đầy đủ các hoạt động về sinh lý, tính thành thục trong đó sự phát triển của noãn bao thành thục nổi rõ lên bề mặt buồng trứng, buồng trứng to hơn bình thường, các tế bào của vách ống dẫn trứng tăng sinh, số lượng lông nhung tăng lên. Đường sinh dục xung huyết, nhu động sừng tử cung tăng, mạch quản trong màng nhầy tử cung tăng, các dịch nhày ở âm đạo nhiều, niêm dịch cổ tử cung tiết ra, kích thích cho cổ tử cung hé mở, bộ phận sinh dục phù thũng, niêm dịch ở đường sinh dục chảy ra nhiều, con vật bắt đầu xuất hiện tính dục. Giai đoạn này ở lợn dài từ 1–2 ngày. Tất cả những biến đổi đó tạo điều kiện thuận lợi cho tinh trùng vào đường sinh dục cái để thụ tinh với tế bào trứng. Giai đoạn động dục (0estrus). Là giai đoạn tiếp theo thường kéo dài từ 2 – 3 ngày. Trong giai đoạn này những biến đổi về sinh lý so với giai đoạn trước động dục càng rõ hơn. Bên ngoài âm hộ phù thũng, niêm mạc xung huyết, niêm dịch trong suốt từ âm đạo chảy ra nhiều. Cuối giai đoạn này tính hưng phấn của con vật cao độ, gia súc ở trạng thái không yên tĩnh, ăn uống giảm rõ, kêu rống, phá chuồng, đứng ngẩn ngơ, nhảy lên lưng con khác hay để con khác nhảy lên lưng, đái rắt, thích gần con đực, xuất hiện các tư thế của phản xạ giao phối. Sau đó khoảng 20h thì trứng mới bắt đầu rụng, thời gian trứng rụng kéo dài từ 4 – 6h, số trứng rụng mỗi lần từ 8 – 25 trứng hoặc hơn. Giai đoạn này nếu tế bào trứng ra khỏi buồng trứng gặp tinh trùng và được thụ thai thì chu kỳ sinh dục sẽ ngừng lại, gia súc cái ở giai đoạn có thai và đến một thời gian sau khi sinh đẻ xong chu kỳ tính mới xuất hiện trở lại. Trường hợp tế bào trứng không được thụ thai thì nó sẽ chuyển sang giai đoạn sau của chu kỳ. Giai đoạn sau động dục (metoestrus). Được tính từ khi kết thúc động dục, thường kéo dài từ 3 – 4 ngày, hoạt động sinh lý bắt đầu lắng xuống, con vật dần trở lại trạng thái sinh lý bình thường, rồi chuyển sang giai đoạn yên tĩnh làm giảm tiết H.Oestrogen, từ đó làm giảm hưng phấn thần kinh, ức chế sự tăng và tiết thể dịch, làm cho con vật trở lên bình thường, chuyển sang giai đoạn yên tĩnh. Giai đoạn yên tĩnh (dioestrus). Là giai đoạn dài nhất chiếm phần lớn chu kỳ động dục, bắt đầu từ ngày thứ 4 sau khi trứng rụng và không được thụ tinh, kết thúc sau khi thể vàng tiêu hủy không còn biểu hiện gì về hành vi sinh dục. Đây là giai đoạn chuyển giao giữa hai lần động dục. Trong quá trình động dục, nếu trứng được thụ tinh thì thể vàng tồn tại suốt 2/3 thời gian mang thai và tiết ra Progesteron có tác dụng an thai, ức chế quá trình rụng trứng, kích thích tuyến vú phát triển. Thời kỳ yên tĩnh lúc này chính là giai đoạn mang thai và thời kỳ sau đẻ. Ở giai đoạn nuôi con dưới tác dụng của Prolactin, Oxytoxin, Progesteron…làm cho quá trình rụng trứng bị đình trệ, hiện tượng động dục không xảy ra. Thường sau khi cai sữa thì chu kỳ tính dần được khôi phục và xuất hiện trở lại sau cai sữa 4 – 8 ngày. Nếu trong quá trình động dục, trứng rụng không được thụ tinh thì thể vàng chỉ tồn tại được 3 – 10 ngày, sau đó teo đi làm ngừng tiết Progesteron. Do đó trứng tiếp tục chín và rụng, xuất hiện chu kỳ tính tiếp theo. Các yếu tố ảnh hưởng tới chu kỳ động dục: * Yếu tố ngoại cảnh: Khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng, mùa vụ, thức ăn…đều ảnh hưởng rõ rệt đến chu kỳ tính của gia súc cái. Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11], ở lợn chu kỳ sinh dục trong suốt cả năm nhưng thường khi khí hậu ấm áp thì nó xuất hiện rõ ràng và đầy đủ các đặc điểm hơn so với điều kiện khí hậu lạnh. Trong điều kiện quá giá lạnh thì chu kỳ sinh dục có thể ngừng lại hoàn toàn. Vũ Duy Giảng và cộng sự (1999) [9], trong điều kiện thức ăn thiếu protein, vitamin, khoáng, chu kỳ tính kéo dài, bao noãn thành thục chậm, thậm chí có bao noãn quắt lại. * Yếu tố thần kinh – thể dịch: Quy luật và đặc điểm của chu kỳ sinh dục chịu sự điều khiển của hệ thần kinh trung ương. Tất cả các kích thích bên ngoài và trong cơ thể như: khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng, chế độ nuôi dưỡng quản lý, tác động xoa bóp, mùi vị con đực, tình trạng cơ quan sinh dục và các bộ phận khác của cơ thể đều ảnh hưởng trực tiếp đến chu kỳ tính một cách phản xạ theo phương thức thần kinh – thể dịch. Ngoài ra, hệ thần kinh thực vật cũng có tác động đến chu kỳ sinh dục. Khi thần kinh giao cảm hưng phấn thì sẽ ức chế chu kỳ sinh dục. Còn khi thần kinh phó giao cảm hưng phấn thì lại kích thích chu kỳ động dục. Tuyến yên có tác dụng trực tiếp lên cơ quan sinh dục cái. Nếu cắt bỏ tuyến yên, noãn bao không phát triển, tế bào trứng không rụng, thể vàng không hình thành, buồng trứng bị teo và các kích tố của buồng trứng cũng không được hình thành. 2.1.2.3. Sinh lý quá trình mang thai. 1. Khái niệm hiện tượng có thai. Có thai là một hiện tượng sinh lý đặc biệt của cơ thể cái, nó được bắt đầu từ khi trứng được thụ tinh cho đến khi sinh đẻ xong. 2. Thời gian có thai. Trong thực tế, sự có thai của gia súc được tính ngay từ ngày phối giống lần cuối. Thời gian có thai phụ thuộc vào những điều kiện và các yếu tố khác nhau. Nó dài hay ngắn tùy theo loài, giống gia súc, tuổi gia súc mẹ, lứa sinh sản, trạng thái dinh dưỡng, sức khỏe… Theo Đặng Đình Tín (1986) [17], Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11], ở lợn thời gian có thai xê dịch trung bình là 110 – 118 ngày,thời gian có thai trung bình là 114 ngày. 3. Quá trình phát triển của phôi thai. Quá trình phát triển của bào thai có thể chia ra làm ba thời kỳ: * Thời kỳ thứ nhất – thời kỳ trứng: Thời kỳ này bắt đầu từ khi tế bào trứng được thụ tinh đến khi hình thành nang phôi – túi phôi. * Thời kỳ thứ hai – thời kỳ phôi thai: Là thời kỳ hình thành nhau thai, hình thành các tế bào và các cơ quan hệ thống của cơ thể. Ở gia súc lớn từ ngày thứ 11 – 40. * Thời kỳ thứ ba – thời kỳ bào thai: Là thời kỳ cuối phôi thai cho đến khi sinh đẻ. Là giai đoạn phân hóa những kết cấu cực tiểu của tế bào và cơ quan, là thời kỳ bào thai phát triển nhanh. 4. Sự điều hòa thần khinh – thể dịch ở thời kỳ mang thai. Điều hòa sự phát triển của bào thai và đảm bảo sự thống nhất trong các hoạt động chức năng giữa cơ thể mẹ và bào thai là một quá trình phức tạp do sự điều tiết thần kinh – thể dịch. Điều tiết thần kinh: bắt đầu từ lúc thụ thai thì trong vỏ não xuất hiện vùng hưng phấn trội để tiếp nhận những biến đổi hóa học và cơ học từ các điểm thụ cảm ở tử cung, do đó đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của phôi thai như: niêm mạc tử cung phát triển, mạch máu đến nhiều, tiết dịch tăng. Hưng phấn tăng cường mạnh nhất ở tháng thứ hai, là một trong các yếu tố dễ gây sẩy thai ở thời điểm này. Điều tiết thể dịch: có sự tham gia tích cực của hệ nội tiết. Progesteron là hocmon an thai, duy trì quá trình mang thai, được sản sinh ở thể vàng và nhau thai. Ở lợn Progesteron chủ yếu do thể vàng cung cấp, vai trò của nhau thai là thứ yếu (Nguyễn Xuân Tịnh và cộng sự, 1996, [18] ). 5. Những biến đổi sinh lý chủ yếu khi có thai. a. Sự biến đổi toàn thân của cơ thể mẹ khi có thai: Khi gia súc có thai, kích tố của hoàng thể và nhau thai làm thay đổi cơ năng hoạt động một số tuyến nội tiết khác. Vì vậy hiện tượng ăn uống, trạng thái dinh dưỡng, quá trình trao đổi chất…của con mẹ được nâng cao cho nên thời kỳ đầu gia súc có thai thường béo hơn khi chưa có thai. Theo Vũ Duy Giảng và cộng sự (1999) [9], trong thời kỳ có chửa, lợn nái tăng từ 15 – 25 kg (không kể các sản phẩm thai, trong đó khoảng 3 – 4 kg là protein). Nói chung trong thời gian có chửa, lợn mẹ tăng từ 1,2 – 1,3 lần so với trước khi phối giống. Theo Vũ Duy Giảng và cộng sự (1999) [9], quan trọng đối với gia súc có thai là vitamin A. Nếu thiếu con mẹ có hiện tượng thoái hóa thượng bì âm đạo và dạ con làm cho khả năng thụ thai kém hoặc nếu con mẹ có thai thì cũng dễ xảy thai, sát nhau, con đẻ ra yếu. Ngoài ra cần bổ sung thêm vitamin D, B1, B2. Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11], trường hợp thiếu caxi và photpho nghiêm trọng thì gia súc mẹ sẽ bị bại liệt trước khi đẻ, khung xoang chậu bị lệch hay biến dạng, dẫn tới hiện tượng đẻ khó. Vũ Duy Giảng và cộng sự (1999) [9], canxi và photpho là 2 nguyên tố không thể thiếu được đối với gia súc có thai. Nhu cầu canxi là 0,6%, photpho là 0,5% so với khối lượng vật chất khô khẩu phần. Bào thai ngày càng phát triển, áp lực xoang chậu và xoang bụng thay đổi nên ảnh hưởng đến sự hoạt động của hệ tuần hoàn và hô hấp. Nhu cầu cung cấp oxy của bào thai dần nâng cao ở thờ