Đề tài Tình hình dân số và tài nguyên sinh vật trên thế giới và ở Việt Nam

Dự báo dân số thế giới sẽ đạt 7,9 tỷ vào năm 2025 và 9,1 tỷ vào năm 2050. Mật độ dân số thế giới hiện nay là 48 người/ha. Hàng năm thế giới có thêm gần 90 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số cao nhất là ở các nước thuộc thế giới thứ 3, chiếm 94% lượng tăng dân số thế giới. Châu Phi sẽ là khu vực có mức tăng dân số nhanh nhất với 1,3 tỷ người vào năm 2025 và 1,8 tỷ vào năm 2050. Tiếp đến là Châu Á với 4,7 tỷ và 5,3 tỷ, riêng Châu Âu dân số sẽ giảm xuống còn 717,6 triệu và 633,5 triệu vào các thới điểm tương ứng. Mối đe doạ chủ yếu đối với môi trường ở hầu hết các nước là việc gia tăng dân số. Ước tính thời gian dân số tăng gấp đôi là 54 năm. Trong các khu vực phát triển phải cần tới 739 năm để dân số tăng gấp đôi, thì khu vực kém phát triển chỉ cần 45 năm. Gia tăng dân số đang gây sức ép đến môi trường toàn cầu. Diện tích trái đất thì giữ nguyên nhưng dân số thì tăng lên gấp nhiều lần. Dân số tăng nhanh làm cho chính phủ và môi trường không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của con người. Muốn tồn tại con người cần phải khai thác tài nguyên thiên nhiên để phục vụ đời sống của mình

doc34 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2313 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình dân số và tài nguyên sinh vật trên thế giới và ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DÂN SỐ VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH DÂN SỐ VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC I.1 Tình hình dân số Thế giới Theo bảng số liệu dân số thế giới 2005 số dân thế giới là 6.477 tỷ người, gấp đôi năm 1960 Bảng 10 quốc gia đông dân nhất thế giới Thứ Tự Tên quốc gia Dân số (triệu người) 1 Trung Quốc 1303.7 2 Ấn Độ 1104 3 Hoa Kỳ 296 4 Inđônêxia 222 5 Brazil 184 6 Pakistan 162 7 Băng la đet 144 8 Nga 143 9 Nigiêria 132 10 Nhật Bản 128 Dự báo dân số thế giới sẽ đạt 7,9 tỷ vào năm 2025 và 9,1 tỷ vào năm 2050. Mật độ dân số thế giới hiện nay là 48 người/ha. Hàng năm thế giới có thêm gần 90 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số cao nhất là ở các nước thuộc thế giới thứ 3, chiếm 94% lượng tăng dân số thế giới. Châu Phi sẽ là khu vực có mức tăng dân số nhanh nhất với 1,3 tỷ người vào năm 2025 và 1,8 tỷ vào năm 2050. Tiếp đến là Châu Á với 4,7 tỷ và 5,3 tỷ, riêng Châu Âu dân số sẽ giảm xuống còn 717,6 triệu và 633,5 triệu vào các thới điểm tương ứng. Mối đe doạ chủ yếu đối với môi trường ở hầu hết các nước là việc gia tăng dân số. Ước tính thời gian dân số tăng gấp đôi là 54 năm. Trong các khu vực phát triển phải cần tới 739 năm để dân số tăng gấp đôi, thì khu vực kém phát triển chỉ cần 45 năm. Gia tăng dân số đang gây sức ép đến môi trường toàn cầu. Diện tích trái đất thì giữ nguyên nhưng dân số thì tăng lên gấp nhiều lần. Dân số tăng nhanh làm cho chính phủ và môi trường không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của con người. Muốn tồn tại con người cần phải khai thác tài nguyên thiên nhiên để phục vụ đời sống của mình. I.1.2 Tổng quan về tình hình dân số Việt Nam Ở nước ta, nếu năm 1975, tổng dân số xấp xỉ 47 triệu người thì đến năm 2020 con số này là 82 triệu người, đứng thứ 13 thế giới trong đó, 75% dân số Việt Nam sống ở nông thôn. Dự đoán đến năm 2020, dân số Việt Nam sẽ vượt qua Nhật Bản ( nước đang có số dân giảm) và đứng thứ 4 Châu Á chỉ sau Trung Quốc, Ấn Độ và Indonexia. Số phụ nữ ỏ độ tuổi sinh đẻ tăng mỗi nắm 500 nghìn người, nghĩa là cứ 1 người bước qua tuổi sinh đẻ thì có 3 người bước vào tuổi này. Trong khi đó, Pháp Lệnh Dân Số ra đời năm 2003 các cặp vợ chồng và cá nhân có quyền quyết định về thời gian sinh đẻ con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với hoàn cảnh của mình. Nhiều người đã dựa vào “quyền “ để sinh nhiều con. Điều này đã góp phần làm tăng dân số trong 1-2 năm trở lại đây. Tỷ lệ phát triển dân số sẽ mang lại 1 vài xu hướng tiêu dùng mới và những thay đổi trong vòng 10 năm tới. Trong đó, việc tăng lực lượng lao động ( những người đưa ra quyết định tiêu thụ) và kiểu hộ gia đình nhỏ sẽ kích thích việc tiêu dùng. Nền kinh tế tiêu thụ sẽ trở thành 1 yếu tố lớn trong tổng quan kinh tế. Dự báo sự phát triển dân số và sự di dân vào đô thị sẽ đưa nền kinh tế tiêu dùng tại Việt Nam đạt tới những tầm cao mới... Gia tăng tự nhiên là 1,3% đã giảm nhiều so với những năm trước đây ( thời kì bùng nổ dân số). Phân bố tập trung ở 2 đồng bằng lớn là : Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng. Theo số liệu mới nhất của website Cục Thống Kê Việt Nam: Dân số Việt nam vào giữa năm 2007 là 87,3 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới. Mỗi năm dân số Việt Nam tăng thêm 1 triệu. Dân số Việt Nam vẫn đang tăng nhanh, bình quân trên 1 triệu người mỗi năm, nghĩa là bằng dân số của 1 tỉnh thuộc loại trung bình. Trong khi thu nhập bình quân đầu người của người dân Việt Nam gần thấp nhất khu vực Đông Nam Á. THU NHẬP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á (TÍNH THEO MỨC MUA TƯƠNG ĐƯƠNG – USD) Nguần: population Reference Bureau, 2000 World Population Data Sheet Sau đây là bảng thông tin các chỉ tiêu cơ bản dân số Việt Nam ( nguần: Tổng điều tra dân số 1999: Population Reference Bureau, 2020 World Population Data Sheet; Bộ y tế, Niên giám thống kê y tế 1996, 1998, 2000; TCTK, Kết quả điều tra biến động dân số/ KHHGD 2001.) Các chỉ tiêu cơ bản Năm Tổng số dân ( ngàn người ) 2001 79.707 Tỷ suất sinh thô(CBR), (% ) 2001 188,6 Tỷ suất chết thô ( CDR), (%0 ) 2001 5,1 Tỷ suất tăng tự nhiên (NIR), (%) 2001 1,35 Dự báo dân số( ngàn người ) 2025 2050 104.124 117.160 Tổng tỷ suất sinh (TFR ) 2001 2,25 Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi (%0) 2001 29,5 Tuổi thọ trung bình ( tuổi): Chung 1999 68,3 Nam 66,5 Nữ 70,1 Dân số đô thị (%) 1999 23,7 Dân số dưới 15 tuổi(%) 2001 31 Dân số từ 65 tuổi trở lên (% ) 2001 6,1 Dân cư 25 % sinh sống tại thành thị và 75% sinh sống tại nông thôn. Các thành phố đông dân nhất Việt Nam là thành phố Hò Chí Minh (5triệu dân ), thủ đô hà Nội (3,5 triệu dân). Hầu hết các thành phố trên cả nước đang trong xu hướng đô thị hoá cao, do đó dân số tại khu vực thành thị sẽ ngày 1 tăng nhanh. Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ với 52 triệu người trong độ tuổi lao động, tuy nhiên số người cao tuổi (trên 60 tuổi - hiện khỏng 6,3 triệu người, chiếm 7,5% dân số cả nước) có chiều hướng gia tăng vì điều kiện sống và chăm sóc y tế được nâng cao. Năm 2005, tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam là 72. Việt Nam là 1 quốc gia của 54 dân tộc cùng chung sống hoà thuận, trong đó dân tộc Kinh chiếm 86% dân số; 53 dân tộc còn lại có số lượng dao động trên dưới 1 triệu người như Tày, Nùng, Thái, Mường, Khmer, cho đến vài trăm người như như dân tộc Ơ Đu và Brâu. Dân tộc Kinh sống rải rác trên khắp lãnh thổ, Nhưng tập trung nhiều nhất ở đồng bằng và các châu thổ của những con sông. Họ là chủ nhân của nền văn minh lúa nước. Đa số các dân tộc còn lại sinh sống ở các vùng đồi núi và trung du, trải dài từ bắc vào nam. Hầu hết trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là dân tộc thiểu số sống ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ I.3.Đa dạng sinh học ở Việt Nam I.3.1   Sự phong phú về đa dạng sinh học và các loài đặc hữu a.     Sự đa dạng sinh học - Thực vật Với tính chất của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, thực vật Việt Nam rất phong phú, đa dạng. Do có sự khác biệt lớn về khí hậu giữa các vùng đã tạo nên một dải rộng các thảm thực vật với nhiều kiểu rừng phong phú : rừng thông chiếm ưu thế ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới, rừng hỗn hợp loại lá kim và lá rộng, rừng khô cây họ dầu ở các tỉnh vùng cao, rừng họ dầu địa hình thấp, rừng ngập mặn với cây đước chiếm ưu thế ở ven biển của đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng, rừng tràm ở Nam Bộ, khu rừng tre nứa ở nhiều nơi. Rừng Việt Nam và các hệ sinh thái thủy vực được xếp thứ 16 trên thế giới về đa dạng sinh học : 12.000 loài thực vật có mạch, 800 loài rêu, cây làm thuốc hơn 1000 loài, cây lấy dầu, lấy nhựa,.... Hệ thực vật Việt Nam có số loài đặc hữu cao. Trong số đó có 40 loài đặc hữu phân bố hẹp, chúng không còn thấy ở các nơi khác trên thế giới, chúng tập trung ở 4 khu vực chính : -         Vùng núi cao Hoàng Liên Sơn. -         Vùng núi cao nguyên Lâm Viên - Lâm Ðồng. -         Vùng núi cao Ngọc Linh - Kontum. -         Khu vực rừng ẩm phía Bắc Trung Bộ. Do đặc điểm cấu trúc, các kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường không có loài ưu thế rõ rệt, số lượng cá thể của từng loài thường hạn chế và trở nên quý hiếm, bị đe dọa khi có sự khai thác không hợp lý. b.     Sự đa dạng sinh học - Ðộng vật Bước đầu xác đinh được khoảng 11.050 loài động vật với 277 loài thú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng thê, 2470 loài cá và khoảng 7000 loài côn trùng cùng các loại động vật không xương sống khác.... Có 10 (số loài thú, chim và cá của thế giới tập trung ở Việt Nam, Việt Nam được xem là nơi còn sót lại một số loài có nguy cơ tuyệt chủng ở Châu Á (voi Châu Á, tê giác một sừng, hươu sao, các loài linh trưởng, Vọc ngũ sắc, cò quắm xanh....) Việt Nam có mức độ động vật đặc hữu cao hơn một số nước láng giềng trong khu vực Ðông Dương. Ðặc biệt năm 1993, 1994 Việt Nam đã phát hiện cho khoa học thế giới loài Sao la, Mang lớn (Vũ Quang - Hà Tĩnh). c.     Sự phong phú của sinh vật biển + Tổng số loài cá biển được ghi nhận là 2038 loài của 717 giống và 198 bộ. + Trên 300 loài san hô đã được tìm thấy ở Việt Nam. Ngoài ra còn có khoảng 2500 loài nhuyễn thể, 1500 loài Crustacea, 700 loài Polychaete, 350 loài Echinoderm, 150 loài Porifera.... + 653 loài tảo biển được xác định. I.3.2     Sự đa dạng sinh học trên các vùng sinh thái đất khác nhau a.     Ða dạng sinh học trên đất ngập nước Ða dạng sinh học trên đất ngập mặn Chế độ thủy triều, nhiệt độ, thành phần cơ giới của đất, độ mặn của đất là các yếu tố sinh thái của vùng đất ngập mặn. Trong đó, độ sâu tầng đất, độ cứng rắn, cấu tượng của đất bùn lầy ở bãi bồi, độ mặn, chu kỳ ngập nước mặn đã ảnh hưởng đến thành phần sinh vật, nhất là đối với thực vật rừng Sác. Quần xã sinh vật sống trong rừng Sác không phong phú và đa dạng như rừng ẩm nhiệt đới trong nội địa. Về thực vật, rừng Sác có hơn 70 loài thực vật có mặt. Ðộng vật có 258 loài cá, 169 loài thân mềm, 68 loài cua, có khoảng 386 loài chim (chủ yếu ở vùng châu thổ sông Cửu Long). Ngoài ra còn có khỉ, lợn rừng, cá sấu, rái cá, kỳ đà gấm. Hệ thực vật và động vật phong phú đã tạo nên sự ÐDSH giàu có, đây chính là nguồn tài nguyên sinh học tự nhiên của sinh thái rừng ngập mặn. Việc nuôi ong trong rừng ngập mặn như một biện pháp tích cực nhất làm tăng giá trị của hệ sinh thái rừng Sác, làm tăng năng suất của rừng. Lượng phù sa và chất dinh dưỡng phong phú của vùng rừng ngập mặn là nguồn thức ăn quan trọng cho các loại tảo phù du, và chính các loại tảo này lại là nguồn thức ăn cho tôm cá và tôm cá lại thu hút lượng lớn chim nước đến sinh sống. Cành lá cây rừng rụng xuống được các VSV phân hủy tạo nguồn thức ăn phong phú. Như vậy có thể nói tính đa dạng sinh học của rừng sác được quyết định bởi khu hệ tảo và VSV. Với một điều kiện đặc biệt, đất rừng Sác có tính ÐDSH khá cao và khá đặc trưng, biểu hiện ở số lượng loài cao và tồn tại nhiều dạng sống khác nhau : trên cạn, dưới nước, trong lòng đất, dưới đáy, trên không. Ða dạng sinh học trên đất rừng tràm Ðất rừng tràm gồm đất sét, bùn, hoặc cát, có tính chua phèn, có chế độ nước ngập định kì trong năm, nước lợ hay ngọt hoàn toàn. Rừng tràm có nhiều ìloại khác nhau : rừng tràm giữa các triền cát, rừng tràm vùng trũng nội địa, bụi rậm tràm gió, rừng tràm trên đất than bùn, rừng tràm trên đất sét, tất cả các kiểu rừng này đều là rừng thóai hóa từ rừng nguyên thủy, chúng thường thuần là tràm với một số ít loài cây khác mọc lẻ tẻ như chà là, dứa gai, gừa, năng, đưng... Ngoài ra còn có dồ cây, một kiểu rừng tiêu biểu cho vết tích nguyên thủy của rừng hỗn hợp ngập nước của rừng U Minh. + Về thực vật : rừng tràm VN thuộc khu hệ thực vật vùng nước ngập định kỳ của Châu Á - Thái Bình Dương với các loài cây tiêu biểu : tràm, chà là, mốp, tràm sẻ, trâm khế, sộp, mây nước, nắp bình, bòng bòng, choại, bồn bồn.... Bên cạnh, rừng tràm còn có sự hiện diện của các loại tảo và VSV khá phong phú và đặc sắc nhưng chưa được nghiên cứu đầy đủ (U Minh hạ có nhóm tảo lam, tảo lục, khuê tảo). + Về động vật : rừng tràm ở các trũng lớn nội địa như Ðồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, U Minh là nơi sinh sống của nhiều loài động vật : phù du -> tôm cá -> cá ăn thịt (cá lóc, cá lóc bông, cá trê, cá dày...) -> rái cá, cá sấu, rắn. Sự phong phú về tôm cá đã kéo theo một số loài chim đến sinh sống như : cò, diệc, vạc, cồng cộc.... Ðặc biệt, sếu đầu đỏ cổ trụi, chúng là một loài đặc hữu của vùng Ðông Nam Á. Côn trùng trong rừng tràm cũng khá phong phú với 45 loài, trong đó loài ong chiếm vị trí ưu thế. Rừng tràm là nơi tập trung của nhiều loài thực vật và động vật rất đặc sắc của Ðồng Bằng Sông Cửu Long mà không thể tìm thấy được ở những nơi khác trong cả nước. b.     Ða dạng sinh học trên đất đá vôi Ðất đá vôi là loại đất phân hóa trên đá vôi, tầng đất mỏng, nghèo chất dinh dưỡng, bị xói mòn nghiêm trọng. Với điều kiện khắc nghiệt như thế, sự hiện diện của các loài sinh vật rất nghèo nàn, vì vậy sự ÐDSH trên đất đá vôi thấp (xem thêm ở tài liệu tham khảo). c.     Sự đa dạng sinh học trên đất Basalt và đất Feralit đồi núi d. Ða dạng sinh học trên đất cát ven biển Ðây là đất cát ven biển được hình thành từ sự phong hóa các loại đá trầm tích biển hoặc có nguồn gốc từ sự bồi tụ cát biển. Thành phần cơ giới chủ yếu là cát mịn hoặc cát thô. Ðiều kiện khí hậu khắc nghiệt với mùa khô hạn kéo dài từ 4 - 6 tháng. Chất lượng dinh dưỡng nghèo nàn lại bị rửa trôi nên dưỡng chất cung cấp cho thực vật rất thấp. Tình trạng thiếu nước là nhân tố quan trọng quyết định tính ÐDSH của khu vực. + Về thực vật : Thực vật ở khu vực này thường có những thích nghi mà nổi bật là kiểu lá cứng dai, tràm, dẻ phiên lá nhỏ lại, lá biến thành gai, phát triển cương mô, cương hóa biểu bì hoặc cây có gai, một số nơi có các loài sao dầu. Ðặc biệt là sự hiện diện của cây nắp bình, thực vật điển hình của vùng đất nghèo dinh dưỡng.Trong điều kiện khô hạn kéo dài, sự thích nghi bằng hình thái sinh lý trở nên phù hợp. Tóm lại, tuy thành phần loài không nhiều nhưng đây là những loài đặc trưng của hệ sinh thái khô hạn. + Về động vật : Số lượng động vật không lớn lắm với các loài thú lớn (bò rừng, voi, hoẳng) thú nhỏ (thỏ, nhím, sóc...). Chim phong phú với các loài thuộc bộ sẻ, nhất là các loại gà lôi (ở Bình Châu). Bò sát chủ yếu là loài rắn độc (hổ mang, hổ chúa, cạp nong), trăn đất, tắc kè. II. VAI TRÒ CỦA TÀI NGUYÊN SINH VẬT II.1 Vai Trò của động thực vật hoang dã với con người a. Về kinh tế Sinh vật hoang dã là nguồn dự trử có tiềm năng to lớn và có khả năng đáp ứng những nhu cầu của con người về lương thực-thực phẩm và những nguyên vật liệu khác như da, lông, gia vị, hương liệu, sáp, dầu ăn, tinh dầu, các hóa chất, giấy, sợi, cao su, phẩm nhuộm.... Người ta ước tính rằng khoảng 90% lượng lương thực và thực phẩm mà con người sử dụng đươc tạo ra từ cây trồng và vật nuôi mà các cây trồng và vật nuôi nầy đều có nguồn gốc từ các loài hoang dã và trải qua một quá trình thuần dưỡng và cải tiến đã hình thành nên. Mặc dù hiện nay nguồn lương thực và thực phẩm con người sử dụng từ các cây trồng và vật nuôi, tuy nhiên cũng có một số nơi trên thế giới người ta vẫn còn sử dụng lượng thực phẩm phần lớn từ những loài động vật hoang dã; chẳng hạn như tại một số vùng ở Ghana, Congo và nhiều nước ở Tây và Trung Phi có tới 75% prôtein động vật được khai thác từ động vật hoang dã. Ngoài việc sử dụng làm thực phẩm, các động vật hoang dã còn được khai thác những bộ phận khác của cơ thể như da, lông, sừng...để làm trang phục, đồ trang trí và nhiều mục đích khác; các sản phẩm nầy cũng có một giá trị kinh tế rất lớn. Ở Canada việc mua bán lông thú đã nuôi sống khoảng 40.000 người săn bắt; trong mùa săn 1975 - 1976 họ đã thu được 25 triệu USD lông thú chủ yếu là của Hải ly, Chuột hương, Linh miêu, Hải cẩu, Chồn Vison và Cáo; cũng trong thời gian nầy việc chăn nuôi cũng thu được 17 triệu USD lông thú trong đó có 90% là của chồn Vison. Trong năm 1975, Hoa kỳ đã chi tới 1 tỉ USD để nhập các sản phẩm từ da và lông của các loài động vật hoang dã. Mậu dịch quốc tế về cây và con hoang dã cũng đem lại một doanh thu lớn, những nước phát triển chăn nuôi động vật hoang dã như Nam Phi, Dimbabwe, Namibia hằng năm thu được lợi nhuận từ 1,3 -2,4 triệu USD; Australia hằng năm xuất khẩu 1,8 triệu con Kangaroo thu được 8,5 triệu USD. Mặc dù tài nguyên về động vật hoang dã đem lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế ở từng quốc gia, tuy nhiên nó cũng là một trong những quan tâm lớn của nhân loại hiện nay. Vi sinh vật tham gia tích cực vào việc phân giải các phế phẩm công nghiệp, phế thải đô thị, phế thải công nghiệp cho nên có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Ngoài ra Vi sinh vật có vai trò quan trọng trong năng lượng (sinh khối hoá thạch như dầu hoả, khí đốt, than đá). Trong các nguồn năng lượng mà con người hy vọng sẽ khai thác mạnh mẽ trong tương lai có năng lượng thu từ sinh khối. Sinh khối là khối lượng chất sống của sinh vật. Vi sinh vật là lực lượng sản xuất trực tiếp của ngành công nghiệp lên men bởi chúng có thể sản sinh ra rất nhiều sản phẩm trao đổi chất khác nhau. Nhiều sản phẩm đã được sản xuất công nghiệp (các loại axit, enzim, rượu, các chất kháng sinh, các axit amin, các vitamin...). Hiện tại người ta đã thực hiện thành công công nghệ di truyền ở vi sinh vật. Đó là việc chủ động chuyển một gen hay một nhóm gen từ một vi sinh vật hay từ một tế bào của các vi sinh vật bậc cao sang một tế bào vi sinh vật khác.Vi sinh vật mang gen tái tổ hợp nhiều khi mang lại những lợi ích to lớn bởi có thể sản sinh ở quy mô công nghiệp những sản phẩm trước đây chưa hề được tạo thành bởi vi sinh vật. Trong công nghiệp tuyển khoáng, nhiều chủng vi sinh vật đã được sử dụng để hoà tan các kim loại quý từ các quặng nghèo hoặc từ các bãi chứa xỉ quặng. b. Về y học Dù rằng chỉ có một phần rất nhỏ động vật và thực vật là đối tượng nghiên cứu về lợi ích trong y dược, nhưng ngành y học hiện đại phụ thuộc rất nhiều vào đó. Một bảng phân tích cho thấy là khoảng 40% các đơn thuốc được các bác sĩ cung cấp hằng năm tại Hoa Kỳ cho thấy có những vị thuốc đơn lẻ hoặc kết hợp đều có chứa các chất tự nhiên được lấy từ thực vật bậc cao (25%), từ các vi khuẩn và nấm ( 13%) hoặc từ các động vật (3%). Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, các vị thuốc được ly trích từ thực vật bậc cao có giá trị khoảng 3 tỉ USD hằng năm và con số nầy còn tiếp tục được gia tăng nữa. Các ứng dụng quan trọng trong y học hiện nay có thể kể là: * Các chất ly trích được sử dụng trực tiếp để chữa bệnh như Aspirin được sử dụng rộng rải trên thế giới được lấy từ lá của cây Liễu ở vùng nhiệt đới, Penicillin được lấy từ loài nấm Penicillium và Streptomycin được lấy từ loài vi khuẩn Streptococcus.... * Các chất ly trích được dùng làm vật liệu ban đầu để tổng hợp nên thuốc như các hormone Corticosurrenale được lấy từ vỏ thượng thận của động vật, các hợp chất Corticoid thông thường được tổng hợp từ các chất Sapogenin steroid có nguồn gốc từ thực vật... * Các chất ly trích được dùng làm mô hình để tổng hợp nên thuốc như chất cocain được lấy từ cây Côca có nguồn gốc ở Nam Mỹ, dựa theo đó người ta đã sản xuất thuốc gây mê cục bộ hiện đại. Nếu không có những gốc có hoạt tính tự nhiên trong cơ thể cuả các sinh vật hoang dã, thì con người khó có khả năng phát hiện được những gốc có hoạt tính đó mà sử dụng hoặc dựa vào đó làm mô hình để tổng hợp. Hiện nay, cũng phát hiện được nhiều loài động vật hoang dã có khả năng sử dụng chúng để làm vật thí nghiệm và sản suất nên những loại vaccin dùng trong việc phòng bệnh và cũng ước tính có khoảng 1400 loài thực vật bậc cao và 10% các loài sinh vật biển có chứa các chất hóa học có khả năng chống bệnh ung thư. c. Về tính đa dạng di truyền Việc bảo tồn tính đa dạng di truyền ở các loài sinh vật hoang dã là một việc làm cấp thiết trong giai đoạn hiện nay, vì chúng là nguồn nguyên liệu di truyền quý giá dùng để cải tiến những thứ cây trồng và những nòi vật nuôi hiện có nhằm để nâng cao sản lượng thu hoạch trong sản xuất nông -lâm -ngư nghiệp. Nguyên liệu di truyền nằm trong các loài gây nuôi (bao gồm tất cả những thứ cây trồng, các nòi vật nuôi, các thủy hải sản) đều có quan hệ mật thiết với nguồn nguyên liệu di truyền của các loài sinh vật hoang dã, nguồn nguyên liệu nầy đã đóng vai trò chủ yếu trong việc cải tạo giống cây trồng và vật nuôi như nâng cao năng suất, chất lượng dinh dưỡng, mùi vị, tuổi thọ, sức đề kháng, sức chịu đựng và khả năng thích nghi với các điều kiện khí hậu, đất đai khác nhau. Nguồn nguyên liệu di truyền trong các loài hoang dã rất hiếm và gần như không bao giờ là vĩnh cữu. Những giống cổ truyền quí thường chỉ phân bố ở từng điạ phương, chính những đặc điểm hữu ích của nó như sản lượng cao hoặc sức đề kháng dịch bệnh của nó làm nền tảng tạo nên những giống mới tiến bộ hơn. Việc thay thế những giống cổ truyền bằng những giống mới trong sản suất là một việc làm cần thiết và tích cực bởi vì chúng ta cần nhiều lương thực - thực phẩm hơn nữa; nhưng điều đó sẽ trở thành nguy hại nếu như các giống cổ truyền có liên quan lại không được bảo vệ vì những loài dịch hại có khả năng tiến hoá nên có khả năng xâm nhiễm trở lại và chỉ có nguồn các giống cổ truyền mới có nguồn nguyên liệu di truyền có khả năng chống lại những loài gây hại và dịch bệnh. Cho nên việc