Các quốc gia trên thế giới như Mỹ Singapore, Ấn Độ từ rất sớm đã xác định và thiết lập được mối quan hệ giữa phát triển các chiến lược kinh tế và chiến lược nhân lực. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về kinh tế, khoa học kỹ thuật của các quốc gia này. Chúng ta cũng đã đặt vấn đề lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân lực, Nhưng chúng ta chưa giải quyết được tận gốc tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực, chưa biến lợi thế dân số hiện nay thành lợi thế cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam trong thế kỷ 21.
Tại Đại hội lần thứ X của Đảng, báo cáo Ban chấp hành trung ương nêu rõ: “ Đổi mới hệ thống giáo dục Đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp sử dụng chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành.”(1). Báo cáo chính trị cũng chỉ rõ: “Trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi ở trong nước và ngoài nước, trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài” (2).
Thực tiễn xã hội Việt Nam hiện nay đã cho thấy, nguồn nhân lực của hầu khắp tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài (NNLCLC,NT) rất khan hiếm.
Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài đang là nỗi lo lắng bức xúc của tất cả các ngành nghề trong xã hội hiện nay, là vấn đề thời sự cấp bách, một bài toán còn chưa tìm được bài giải thoả đáng, Đây cũng là mối quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
Trong “Chiến lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011- 2020, Tầm nhìn đến năm 2030” Bộ Y tế nhấn mạnh về nhiệm vụ trọng tâm và phương hướng của ngành: Ngành y tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng cần nhấn mạnh, đối với lĩnh vực này y tế công lập vẫn phải là chủ đạo.
Nhà nước phải chăm lo sức khỏe cho toàn dân, nhất là các đối tượng chính sách, người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế chậm phát triển và người dân sinh sống ở các vùng biển và hải đảo nước ta
Cũng như mọi ngành, ngành y tế hiện nay ở Việt Nam thiếu hụt nguồn lực chất lượng cao, nhân tài và tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư, từ trong nước ra nước ngoài đang là vấn đề khó khăn cho sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Ngành y tế Việt Nam đang rất cần Đảng, Nhà nước, Chính quyền địa phương, các cấp, các ngành có chính sách thu hút kịp thời, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài vào khu vực công của y tế, trong đó có các bệnh viện công lập.
Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài trong ngành y tế, đặc biệt ở các bệnh viện công lập có ý nghĩa rất to lớn trong việc phát triển hệ thống y tế công lập phục vụ công tác phòng bệnh, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Không giống như các ngành nghề khác ngành Y tế là ngành vừa phục vụ vừa dịch vụ cho nên nếu chỉ phát triển theo hướng thị trường thì không đảm bảo, không đáp ứng được công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho toàn dân; bởi vì, hiện nay tỷ lệ người có thu nhập thấp, người nghèo, người cận nghèo ở nước ta chiếm khoảng 80%, họ không có đủ điều kiện tham gia các dịch vụ y tế tư nhân. Chính vì vậy, phát triển hệ thống y tế công lập là hết sức cần thiết và thiết thực, song song với đầu tư cơ sở hạ tầng đầu tư cho y tế, phát triển nguồn nhân lực là hết sức quan trọng.
Một trong những lý do ngành y tế chưa thu hút được NNLCLC, NT là do chính sách của chúng ta chưa thực sự hấp dẫn về chế độ đãi ngộ cả vật chất lẫn tinh thần. Mức lương hiện nay chưa khuyết khích được người tài cống hiến; nhiều bác sỹ giỏi vừa tham gia công tác ở bệnh viện vừa điều hành doanh nghiệp tư dưới nhiều hình thức để kiếm sống. Vị thế xã hội của bác sỹ chưa xứng tầm với sự cống hiến của họ.
Tất cả những điều được trình bày ở trên và qua thực tế quá trình công tác trong ngành y tế là lý do được học viên chọn đề tài:“Tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho các bệnh viện công lập” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
120 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2704 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho các bệnh viện công lập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Các quốc gia trên thế giới như Mỹ Singapore, Ấn Độ từ rất sớm đã xác định và thiết lập được mối quan hệ giữa phát triển các chiến lược kinh tế và chiến lược nhân lực. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về kinh tế, khoa học kỹ thuật của các quốc gia này. Chúng ta cũng đã đặt vấn đề lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân lực, Nhưng chúng ta chưa giải quyết được tận gốc tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực, chưa biến lợi thế dân số hiện nay thành lợi thế cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam trong thế kỷ 21.
Tại Đại hội lần thứ X của Đảng, báo cáo Ban chấp hành trung ương nêu rõ: “ Đổi mới hệ thống giáo dục Đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp sử dụng chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành.”(1). Báo cáo chính trị cũng chỉ rõ: “Trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi ở trong nước và ngoài nước, trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài” (2).
Thực tiễn xã hội Việt Nam hiện nay đã cho thấy, nguồn nhân lực của hầu khắp tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài (NNLCLC,NT) rất khan hiếm.
Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài đang là nỗi lo lắng bức xúc của tất cả các ngành nghề trong xã hội hiện nay, là vấn đề thời sự cấp bách, một bài toán còn chưa tìm được bài giải thoả đáng, Đây cũng là mối quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
Trong “Chiến lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011- 2020, Tầm nhìn đến năm 2030” Bộ Y tế nhấn mạnh về nhiệm vụ trọng tâm và phương hướng của ngành: Ngành y tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng cần nhấn mạnh, đối với lĩnh vực này y tế công lập vẫn phải là chủ đạo.
Nhà nước phải chăm lo sức khỏe cho toàn dân, nhất là các đối tượng chính sách, người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế chậm phát triển và người dân sinh sống ở các vùng biển và hải đảo nước ta
Cũng như mọi ngành, ngành y tế hiện nay ở Việt Nam thiếu hụt nguồn lực chất lượng cao, nhân tài và tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư, từ trong nước ra nước ngoài đang là vấn đề khó khăn cho sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Ngành y tế Việt Nam đang rất cần Đảng, Nhà nước, Chính quyền địa phương, các cấp, các ngành có chính sách thu hút kịp thời, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài vào khu vực công của y tế, trong đó có các bệnh viện công lập.
Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài trong ngành y tế, đặc biệt ở các bệnh viện công lập có ý nghĩa rất to lớn trong việc phát triển hệ thống y tế công lập phục vụ công tác phòng bệnh, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Không giống như các ngành nghề khác ngành Y tế là ngành vừa phục vụ vừa dịch vụ cho nên nếu chỉ phát triển theo hướng thị trường thì không đảm bảo, không đáp ứng được công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho toàn dân; bởi vì, hiện nay tỷ lệ người có thu nhập thấp, người nghèo, người cận nghèo ở nước ta chiếm khoảng 80%, họ không có đủ điều kiện tham gia các dịch vụ y tế tư nhân. Chính vì vậy, phát triển hệ thống y tế công lập là hết sức cần thiết và thiết thực, song song với đầu tư cơ sở hạ tầng đầu tư cho y tế, phát triển nguồn nhân lực là hết sức quan trọng.
Một trong những lý do ngành y tế chưa thu hút được NNLCLC, NT là do chính sách của chúng ta chưa thực sự hấp dẫn về chế độ đãi ngộ cả vật chất lẫn tinh thần. Mức lương hiện nay chưa khuyết khích được người tài cống hiến; nhiều bác sỹ giỏi vừa tham gia công tác ở bệnh viện vừa điều hành doanh nghiệp tư dưới nhiều hình thức để kiếm sống. Vị thế xã hội của bác sỹ chưa xứng tầm với sự cống hiến của họ.
Tất cả những điều được trình bày ở trên và qua thực tế quá trình công tác trong ngành y tế là lý do được học viên chọn đề tài:“Tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho các bệnh viện công lập” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
UNESCO là tổ chức quốc tế có nhiệm vụ theo dõi, nghiên cứu tình hình xã hội trên toàn thế giới nhằm giúp các cấp lãnh đạo quốc tế và các nước đưa ra các chính sách và chiến lược phát triển.
UNESCO có chương trình MOST (Management of Social Transformation, Chương trình nghiên cứu quản lý biến đổi xã hội). Một trong những mục đích của chương trình này là nghiên cứu nhân tài và nhân lực trên phạm vi toàn thế giới, nghiên cứu các dòng di chuyển nhân lực trên thế giới, đặc biệt là nhân lực cao cấp, nhằm giúp các nhà hoạch định đưa ra chính sách và chiến lược ở tầm thế giới về quản lý nhân lực và nhân tài.
Cho đến nay không ít các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực, nhân tài ở Việt nam như: cuốn sách “ Tài năng trong thời kỳ kinh tế tri thức và toàn cầu hoá” của Giáo sư Hoàng Chương chủ biên; “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Nguyễn Thanh (NXB CTQG, Hà Nội 2005);
Trong thời gian gần đây, vấn đề nguồn nhân lực của các ngành, nghề, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài đang là chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học trong nước. Năm 2006, một đề tài khoa học và công nghệ độc lập cấp Nhà nước đã được bảo vệ mang tên “ Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học cho qui trình phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài phục vụ công nghiệp hoa, hiện đại hoá đất nước” của Đại học Quốc gia Hà Nội do GS.TSKH. Đào Trọng Thi làm chủ nhiệm. Đề tài “ Nguồn nhân lực và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới” của GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú-Hội khoa học tâm lý-giáo dục Việt Nam (Năm 2010)…
Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới dừng lại ở trên bình diện chung, việc nghiên cứu cụ thể nguồn nhân lực, nhân tài trên một số ngành nghề cụ thể còn chưa có nhiều.
Mặc dù, có nhiều tác giả đã nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài, nhưng chưa có ai nghiên cứu và viết luận văn, luận án về “ Tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho các bệnh viện công lập.”
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho các bệnh viện công lập; luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách này trong các bệnh viện công lập hiện nay.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và hoạt động tổ chức thực hiện các chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho các bệnh viện công lập được thể hiện ở các bước: tuyển dụng, sử dụng đến bố trí vị trí việc làm, đề bạt, khen thưởng, chế độ đãi ngộ... cùng với việc tổ chức thực hiện chính sách thu hút họ về làm việc ở bệnh viện công lập đối với đội ngũ này.
4.2. Khách thể nghiên cứu:
Ở đề tài nay học viên nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài trong ngành y tế bao gồm: Giáo sư, chuyên gia, Tiến sỹ y học, Thạc sỹ y học, Bác sỹ, Bác sỹ CKI, CKII, Kỹ thuật viên cao cấp, điều dưỡng viên cao cấp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Khái quát lý luận về Tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài (NNLCLC, NT) cũng như hiệu quả của nguồn lực này của ngành Y tế Việt Nam nói chung và các Bệnh viện công lập nói riêng.
5.2. Nghiên cứu đánh giá thực trạng, hiệu quả việc tổ chức thực hiện chính sách thu hút NNLCLC, NT tại một số Bệnh viện công lập, tìm ra những mặt tích cực, hạn chế của thực trạng này và có những nhận xét khách quan về nó.
5.3. Đề xuất và kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện chính sách này trong các bệnh viện công lập ở Việt Nam.
6. Giả thuyết khoa học
Bất kỳ tổ chức nào, con người luôn đóng vai trò trung tâm và quyết định sự phát triển hay không thành công của nó. Đảng, Nhà nước ta đã có chủ trương, có những chính sách thu hút, người tài bằng nhiều biện pháp cũng như bằng nhiều chế độ đãi ngộ vào làm việc để phát huy năng lực của họ trong bộ máy hành chính nhà nước cũng như trong các tổ chức sự nghiệp công lập. Đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, nhân tài thực sự đã đóng góp nhiều thành tích to lớn trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Chúng ta đã có nhiều chính sách để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và người tài vào bộ máy, chúng ta đã tổ chức thực hiện những chính sách đó một cách hữu hiệu.
Nếu chúng ta có những kế hoạch chu đáo và có các biện pháp cụ thể tổ chức thực hiện những chính sách thu hút này một cách khoa học và đặc biệt nếu có một đội ngũ cán bộ có nhận thức tốt về vấn đề này, thường xuyên chăm lo, quan tâm đến tổ chức thực hiện hiệu quả các chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, người tài vào các cơ quan nhà nước cũng như vào các bệnh viện công lập thì hiệu quả làm việc của bộ máy sẽ được tăng cường.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
7.1. Giới hạn về khách thể nghiên cứu:
Tiến sỹ y học, Thạc sỹ y học, Bác sỹ, Bác sỹ CKI, CKII, Kỹ thuật viên cao cấp, điều dưỡng viên cao cấp.
7.2. Giới hạn về thời gian và địa điểm:
Khảo sát tổ chức thực hiện chính sách này ở một số bệnh viện điều dưỡng phục hồi chức năng công lập ở một số tỉnh, thành phố phía như: Hà Nội, Thanh Hoá, Nghệ An, Đà Nẵng và một vài tỉnh khác từ năm 2008-2009-2010.
8. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:
8.1. Nhóm phương pháp phân tích và tổng hợp các tài liệu lý luận:
Phân tích khái quát các văn bản của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các tài liệu lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
8.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý nhà nước;
8.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học.
9. Đóng góp mới của luận văn
- Đóng góp về lý luận: Đề tài này được hoàn thành sẽ là công trình phản ánh đầy đủ và chính xác hơn luận cứ cơ sở khoa học về tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực, nhân tài trong ngành y tế của đất nước nhằm thúc đẩy phát triển xã hội đảm bảo một phần công tác an sinh xã hội cho đất nước trong tiến trình đổi mới.
- Đóng góp về thực tiễn: Việc làm rõ nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài trong ngành y tế về cơ cấu, số lượng, chất lượng….chỉ rõ thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài trong ngành y tế là những tài liệu luận cứ khoa học cần thiết cho việc hoạch định các chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước trên lĩnh vực này, góp phần phát triển bền vững đất nước và ngành y tế trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Các kết quả mà đề tài đem lại còn giúp ích thiết thực cho việc xây dựng đội ngũ các nhà khoa học chân chính, phát triển nhân tài của ngành y tế và đất nước từ việc khẳng định mình, xây dựng hoàn thiện bản lĩnh nhân cách của chính mình, tự chăm lo cho tài năng của mình ngày càng phát triển, đóng góp cho sự nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân trong điều kiện hiện nay.
10. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, bố cục của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài.
- Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho các bệnh viện công lập.
- Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nhằm tổ chức thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài có hiệu quả cho các bệnh viện công lập ở nước ta hiện nay.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO,
NGƯỜI TÀI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới nhằm sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp. Bối cảnh đất nước có cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ, cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau, cùng tác động đến sự phát triển của đất nước. Đảng ta nhận định: “Những năm tới, đất nước ta có cơ hội lớn để tiến lên, tuy khó khăn còn nhiều. Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn”. Để sự nghiệp đổi mới phát triển không ngừng, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề quan trọng là phải chủ động nắm bắt thời cơ, đẩy lùi và khắc phục nguy cơ, từng bước tạo ra thế và lực mới, ổn định chính trị- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh để phát triển đất nước bền vững. Điều đó cùng với nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với những nước trong khu vực và trên thế giới vẫn là thách thức lớn và gay gắt, đòi hỏi một cách gắt gao chúng ta phải tạo dựng và phát triển được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu.
Nguồn nhân lực trong đề tài này là một khái niệm đồng nghĩa với khái niệm nguồn lực con người, đây là một khái niệm đa dạng, được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong lý thuyết phát triển và theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu như nguồn lực con người của một quốc gia, vùng lãnh thổ, ngành và là một bộ phận của các nguồn lực, có khả năng huy động để tham gia và quá trình phát triển kinh tế và xã hội, như các nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính. Nguồn nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nội lực của sự phát triển của tất cả các quốc gia. Đó là nguồn lực có trí tuệ, có khả năng phục hồi và tự tái sinh, tự phát triển; đồng thời nguồn nhân lực vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi một lĩnh vực, một ngành nghề nhất định lại có nguồn nhân lực riêng của mình với những yêu cầu, đặc điểm riêng nhất định. Tính chất, đặc điểm, vai trò của nguồn nhân lực trong từng lĩnh vực cụ thể có những đặc thù riêng, đồng thời lại mang những tính chất, vai trò, đặc điểm chung của nguồn nhân lực - nguồn lực con người.
Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tiếp cận chính ở đây là với góc độ tiếp cận nguồn nhân lực là lực lượng lao động; là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng. Quan niệm này cần được diễn đạt cụ thể thêm các nội dung: thứ nhất, nguồn nhân lực với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường, có khả năng lao động; thứ hai, nguồn nhân lực là nguồn lực với tư cách là yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã hội, là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có khả năng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động; thứ ba, nguồn nhân lực có thể hiểu là tổng hợp các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần của các cá nhân được huy động vào quá trình lao động, phát triển kinh tế - xã hội.
Cách tiếp cận trên về nguồn nhân lực là toàn diện và khoa học, cần hiểu nguồn nhân lực là yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Bộ Luật lao động của Việt Nam quy định: những người trong độ tuổi từ đủ 15 đến 60 tuổi đối với nam và từ đủ 16 đến 55 tuổi đối với nữ, đều thuộc vào nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động. Những người trong độ tuổi lao động nhưng không có khả năng lao động, do yếu tố sức khoẻ, bệnh tật, sinh lý...thì không nằm trong khái niệm nguồn nhân lực mà chúng ta nghiên cứu, và đó không phải là nguồn nhân lực, không phải là “yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã hội”. Như vậy, theo Luật Lao động, nguồn nhân lực, nguồn lực con người đồng nghĩa và trùng khít với khái niệm nguồn lực lao động, nguồn lao động.
Như vậy, nguồn nhân lực là dạng đặc biệt của nguồn lực nói chung, là tổng thể các yếu tố tạo nên sức mạnh của con người và cộng đồng xã hội; là tổng thể số lượng dân, chất lượng con người và cơ cấu dân số với tất cả sức mạnh và khả năng của nó có thể huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố tạo nên sức mạnh của con người và cộng đồng xã hội; là tổng thể số lượng dân, chất lượng con người và cơ cấu số dân, cần được phân tích trên các yếu tố chính hợp thành số lượng, chất lượng và cơ cấu. Nguồn nhân lực có vai trò lớn quyết định:
Thứ nhất, nguồn nhân lực là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn nhân lực bao giờ cũng là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí lực có ưu thế nổi bật là yếu tố vô hạn nếu biết bồi dưỡng khai thác, sử dụng hợp lý sẽ tạo nên một động lực to lớn có tính quyết định cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong các nguồn lực: nguồn lực con người, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính..., thì nguồn lực con người, nguồn nhân lực là quan trọng nhất, nó tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, những nguồn lực khác muốn phát huy được tác dụng thì chỉ có thông qua nguồn lực con người. Nguồn nhân lực là yếu tố nội lực quan trọng chi phối quá trình phát triển của mỗi quốc gia và đặc biệt quan trọng đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển, dân số đông như nước ta. Các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu và chất lượng đến đâu chăng nữa, thì chúng vẫn chỉ có giới hạn và chỉ phát huy được sức mạnh, hiệu quả và tác dụng thông qua nguồn lực con người. Trong điều kiện đạt được những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại như hiện nay, thì con người luôn luôn là nguồn sáng tạo vô tận tạo ra thiết bị máy móc và điều khiển chúng hoạt động để đạt mục đích của chính con người. Đây là nguồn lực quyết định, không thể thay thế.
Nguồn nhân lực là yếu tố cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, đã tìm ra thật đơn giản là trước hết để tồn tại con người phải ăn, uống, mặc, ở, đi lại...trước khi thực hiện các hoạt động chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Nhưng muốn có cái ăn, cái mặc, nơi ở thì con người phải lao động. Lao động là hành vi lịch sử đầu tiên của con người, lao động sáng tạo ra chính bản thân con người. Tuy nhiên lao động của con người không thể tuỳ tiện được mà phải có cách thức lao động, đó là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành sản xuất ra của cải vật chất trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau có phương thức sản xuất khác nhau. Sự vận động và phát triển của lịch sử xét đến cùng là có căn nguyên xuất phát từ kinh tế, từ sự vận động và thay thế của các phương thức sản xuất.
Thứ hai, nguồn nhân lực vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Xem xét nguồn nhân lực vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội là cách xem xét biện chứng và nhân văn. Động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng bền vững về kinh tế và xã hội chính là nguồn lực con người. Đầu tư cho con người, chi tiêu cho con người là sự đầu tư, chi tiêu quan trọng; trong nhiều trường hợp chi tiêu cho con người không phải là một khoản tiêu dùng đơn thuần, mà là một khoản đầu tư để hình thành một loại nguồn vốn đặc biệt quan trọng. Đó là nguồn vốn có khả năng sản sinh ra các nguồn thu nhập trong tương lai. Đó là nguồn vốn mà con người thông qua việc tạo lập kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm, tinh thần và ý thức trách nhiệm được tạo dựng và phát triển.
Nguồn nhân lực là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất