Đề tài Tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo pháp luật hiện hành

“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại điều 83 hiến pháp 1992 hiện hành. Một câu hỏi đặt ra ở đây là: cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động của quốc hội được pháp luật quy định ra sao và trên thực tế diễn ra như thế nào? Vì vậy em xin chọn đề tài: “ Tổ chức và hoạt động của quốc hội theo pháp luật hiện hành – thực trạng và giải pháp” đề làm rõ vấn đề trên.

doc10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1983 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu. “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại điều 83 hiến pháp 1992 hiện hành. Một câu hỏi đặt ra ở đây là: cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động của quốc hội được pháp luật quy định ra sao và trên thực tế diễn ra như thế nào? Vì vậy em xin chọn đề tài: “ Tổ chức và hoạt động của quốc hội theo pháp luật hiện hành – thực trạng và giải pháp” đề làm rõ vấn đề trên. Nội dung I.Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo pháp luật hiện hành. 1. Tổ chức của Quốc hội theo pháp luật hiện hành. Tổ chức của Quốc hội bao gồm cơ cấu bên trong được lập ra để giúp Quốc hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ, và quyền hạn của mình. Tổ chức Quốc hội do Hiến pháp và luật tổ chức quốc hội quy định. Tổ chức của Quốc hội được quy định gồm có: Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Hội đồng dân tộc (HĐDT)và các ủy ban (UB)của Quốc hội. Hiến pháp 1992 quy định, tách Hội đồng Nhà nước thành 2 chế định: chủ tịch nước và Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước đảm nhiệm nhiệm vụ nguyên thủ quốc gia còn UBTVQH là cơ quan thường trực của Quốc hội. thành phần của UBTVQH gồm có: chủ tịch Quốc hội, phó chủ tịch Quốc hội, và các ủy viên. Chủ tịch Quốc hội làm chủ tịch UBTVQH, phó chủ tịch Quốc hội làm phó chủ tịch UBTVQH (điều 5 Luật tổ chức Quốc hội, năm 2003) Hội đồng dân tộc gồm: chủ tịch các phó chủ tịch và các ủy viên do Quốc hội bầu ra trong các đại biểu Quốc hội. Số phó chủ tịch và số ủy viên của hội đồng dân tộc do Quốc hội quyết định. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về vấn đề dân tộc, thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc ít người. Ủy ban của Quốc hội được chia thành 2 loại: Ủy ban thường trực và Ủy ban lâm thời. Ủy ban thường trực làm nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh, và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc UBTVQH giao, trình Quốc hội, UBTVQH ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của ủy ban. Theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức Quốc hội bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/20007 thì Quốc hội có 9 ủy ban thường trực, đó là: Ủy ban pháp luật, Ủy ban tư pháp, Ủy ban kinh tế, Ủy ban tài chính, ngân sách; Ủy ban quốc phòng và an ninh; Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Ủy ban về các vấn đề xã hội; Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường; Ủy ban đối ngoại. Hiến pháp 1992 còn quy định mỗi ủy ban phải có một số ủy viên phải làm việc theo chế độ chuyên trách. Ủy ban lâm thời là những ủy ban được Quốc hội thành lập ra khi xét thấy cần thiết để nghiên cứu thẩm tra 1 dự án hoặc điều tra 1 vấn đề nhất định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ủy ban này sẽ giải thể. Ví dụ như: Ủy ban sửa đổi hiến pháp, Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội, Ủy ban của Quốc hội có chủ nhiệm, các phó chủ nhiệm và các ủy viên. Số phó chủ nhiệm và số ủy viên ủy ban do Quốc hội quyết định. Thành viên của ủy ban của Quốc hội do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội, số thành viên hoạt động chuyên trách do UBTVQH quyết định. 2. Hoạt động của Quốc hội theo pháp luật hiện hành. Xuất phát từ đặc điểm của Quốc hội nói chung, Quốc hội nước ta có phương thức hoạt động chủ yếu: kỳ họp, phiên họp và quyết định theo đa số. Ngoài phương thức hoạt động chủ yếu đó, Quốc hội nước ta còn sử dụng các phương thức hoạt động khác thông qua hoạt động của UBTVQH, của văn phòng Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội – đây là hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Kỳ họp và các phiên họp của Quốc hội là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội. Tại kỳ họp, Quốc hội thảo luận những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Quốc hội họp thường lệ mỗi năm 2 kỳ, do UBTVQH triệu tập. Trong trường hợp chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ, hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết của mình, UBTVQH triệu tập Quốc hội họp bất thường (điều 86, hiến định pháp 1992). Kỳ buổi họp thường lệ của Quốc hội được chia thành nhiều phiên họp là các họp toàn thể của Quốc hội tại hội trường. Để đảm bảo cho kỳ họp có hiệu quả thực sự, mọi kỳ họp phải được tiến hành theo một trình tự bắt buộc. Trình tự tiến hành các kỳ họp của Quốc hội được quy định một số điểm chính các điều khoản của hiến pháp, luật tổ chức Quốc hội. Tiến trình kỳ họp được chia làm ba giai đoạn: chuẩn bị kỳ họp, thảo luận và thông qua các dự án. Ngoài trình tự trên, nội quy kỳ họp có quy định cách thức tiến hành kỳ họp thứ nhất, trình tự tiến hành chất vấn và trình tự lập pháp. Thứ hai là hoạt động của UBTVQH và các cơ quan khác của Quốc hội. trong thời gian giữa 2 kỳ họp Quốc hội, UBTVQH, HĐDT và các ủy ban của quốc hội tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tùy theo sự phân công của Quốc hội, có những loại việc thuộc quyền quyết định của mỗi cơ quan: thẩm quyền ban hành pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; thẩm quyền giám sát, khảo sát thẩm tra của Hội đồng dân tộc, các ủy ban Quốc hội… ngoài ra các cơ quan này phải báo cáo trước Quốc hội về công việc của mình đã làm để Quốc hội xem xét, quyết định. Thứ ba, hoạt động của đoàn đại biểu Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội không họp hoạt động của đoàn đại biểu quốc hội là hiện thân của Quốc hội tại các địa phương. Theo quy định của quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội thì đoàn đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tổ chức để các đại biểu trong đoàn tiếp xúc cử tri; đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tham gia các hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động giám sát thi hành pháp luật ở địa phương; phối hợp hoạt động với UBTVQH, HĐDT các ủy ban của Quốc hội để giữ mối liên hệ của đại biểu với cơ quan của Quốc hội, chính quyền địa phương. Cuối cùng, hoạt động của đoàn đại biểu Quốc hội gồm: hoạt động của đại biểu không chuyên trách và hoạt động của đại biểu chuyên trách. Các đại biểu tham gia các kỳ họp, phiên họp của Quốc hội, thực hiện việc tiếp dân, tiếp xúc cử tri, đôn đốc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, tham gia các hoạt động của các cơ quan Quốc hội mà đại biểu là thành viên… (theo luật tổ chức Quốc hội, nội quy kỳ họp, quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội). II. Thực trạng và giải pháp tổ chức và hoạt động của Quốc hội 1. Về tổ chức của Quốc hội. Hiến pháp 1992 đã phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thường trực Quốc hội với chế định nguyên thủ quốc gia (chủ tịch nước), đồng thời, các thành viên của UBTVQH là những đại biểu làm việc theo chế độ chuyên trách. Chủ tịch hội đồng dân tộc, các chủ nhiệm của các ủy ban Quốc hội là thành viên của ủy ban thường vụ Quốc hội. Cơ cấu tổ chức này đã tạo ra cơ chế làm việc mới giữa các cơ quan đại diện của Quốc hội, có sự kết hợp chặt chẽ giữa UBTVQH, HĐDT và các UB của quốc hội. Sự kết hợp này đã có những thuận lợi cho việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong các kỳ họp cũng như hoạt động của UBTVQH, nhất là bảo đảm để UBTVQH thực hiện việc điều hòa hoạt động của HĐDT, các UB của Quốc hội có hiệu quả hơn. Cơ cấu tổ chức của UBTVQH đã có sự thay đổi đáng kể. Hiến pháp 1992 phân rõ nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan thường trực của quốc hội với chế định nguyên thủ quốc gia (chủ tịch nước). Thành viên của UBTVQH làm việc theo chế độ chuyên trách. Chủ tịch HĐDT, các chủ nhiệm của các ủy ban của Quốc hội là các thành viên của UBTVQH. Cơ cấu tổ chức này đã tạo ra cơ chế làm việc mới giữa UBTVQH, HĐDT, ủy ban của quốc hội, tạo thắng lợi cho tổ chức hoạt động của Quốc hội ở các kỳ họp và các hình thức hoạt động thường xuyên khác. Ủy viên UBTVQH hầu hết hoạt động kiêm nhiệm thì chủ tịch, các phó chủ tịch và các ủy viên UBTVQH theo hiến pháp 1992 là hoạt động chuyên trách. Việc tăng cường số đại biểu quốc hội chuyên trách trong UBTVQH tạo điều kiện thuận lợi cho UBTVQH thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cơ cấu tổ chức các cơ quan khác của Quốc hội: HĐDT, UB của Quốc hội. Số thành viên được bố trí tương đối hợp lý. Chất lượng đại biểu quốc hội ngày càng được nâng cao: có trình độ am hiểu sâu, rộng về chuyên môn, có kinh nghiệm công tác, nên thúc đẩy hoạt động của các cơ quan này ngày càng tốt hơn, hay cũng chính là hoạt động của quốc hội ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, các cơ quan này vẫn thiếu đại biểu chuyên trách, thiếu thời gian hoạt động nhưng HĐDT và các uỷ ban vẫn tiến hành công tác giám sát, đều đặn, thường xuyên. Nhiều báo cáo thẩm tra, thuyết trình, kết luận, kiến nghị rút ra hoạt động giám sát đã đạt kết quả cao, phản ánh được thực tế cuộc sông, có tính thuyết phục, góp phần vào việc thực hiện nghị quyết của quốc hội. Đoàn đại biểu quốc hội được hình thành từ quốc hội khóa I, song từ khóa IX vai trò mới được chú trọng và hoàn thiện: số lượng đại biểu phân bố cho các địa phương được quan tâm hơn, đặc biệt với các tỉnh còn ít dân. Trong thời gian gần đây, vấn đề tổ chức bộ phận giúp việc tại các địa phương được quan tâm, chú trọng. Đội ngũ đoàn đại biểu quốc hội chuyên trách được tăng cường, bổ sung bằng nhiều biện pháp: trong kỳ họp thứ 10 hội quốc khóa X, sửa đổi bổ sung nhiều quy định trong luật tổ chức quốc hội: thành lập văn phòng đoàn đại biểu quốc hội, bảo đảm nâng cao hơn nữa hiệu quả phục vụ hoạt động của các đoàn đại biểu quốc hội ở địa phương. Theo quy định của hiến pháp 1992 đến nay, các khóa quốc hội được tổ chức theo tinh thần đởi mới: quốc hội khóa XII có 493 đại biểu quốc hội, trong đó có 1 đại biểu tự ứng cử, 138 đại biểu chuyên trách, 43 đại biểu ngoài đảng, 87 đại biểu người dân tộc ít người, 127 đại biểu là phụ nữ, 4 đại biểu đại diện cho các tôn giáo. Để hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Quốc hội chúng ta cần: Nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới những quy định liên quan đến tổ chức quốc hội, các cơ quan của quốc hội. Thành lập mới và tách một số ủy ban của quốc hội theo từng lĩnh vực hoạt động chuyên sâu, bảo đảm để các cơ quan này thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu, giúp quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tiếp tục đổi mới cơ cấu và phương thức hoạt động của đoàn đại biểu Quốc hội trong điều kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên. Đổi mới cơ chế bầu cử và phương thức chọn lọc đại biểu Quốc hội, kết hợp đúng đắn giữa cơ cấu và tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội: đổi mới quy trình hiệp thương, lựa chọn người ứng cử đại biểu Quốc hội, tạo điều kiện để nhân dân có đủ điều kiện để tham gia ứng cử và có cơ hội trúng cử. Tăng cường số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Kiện toàn và củng cố bộ máy tham mưu, giúp việc Quốc hội: cần nghiên cứu, lựa chọn mô hình tổ chức bộ máy giúp việc riêng cho hội đồng dân tộc, ủy ban Quốc hội dưới hình thức văn phòng. 2. Về hoạt động của Quốc hội Dựa trên nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội, ta chia hoạt động của Quốc hội theo các phương diện: hoạt động lập pháp, hoạt động giám sát tối cao, hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Trước hết là hoạt động lập pháp của quốc hội không ngừng được tăng cường và đổi mới. Trung bình mỗi năm, Quốc hội thông qua được 4 đạo luật. Tuy nhiên, xét hoàn cảnh thực tế trong từng giai đoạn của hơn 60 năm qua thì mới thấy hết được sự cố gắng và tiến bộ không ngừng của hoạt động này, nhất là sự cố gắng của quốc hội trong những năm gần đây, khi đất nước thoát khỏi chiến tranh bước vào thời kỳ xây dựng đất nước. Hơn 2/3 tổng số luật là mới, số lượng luật được quốc hội thông qua được tăng kên đáng kể: số lượng các luật được quốc hội thông qua trong các khóa X, XI, XII lần lượt là: 31 luật, 84 luật, 82 luật. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật được quốc hội ngày càng mở rộng: nếu như trước đây trong một quãng thời gian dài 10 năm (1945 – 1956) và 15 năm (1965 – 1980) quốc hội gần như không thông qua một đạo luật nào, hoạt động lập pháp của quốc hội chỉ phục vụ việc tổ chức bộ máy nhà nước. hiện nay hoạt động lập pháp của quốc hội được mở rộng sang các lĩnh vực khác về kinh tế - xã hội: các luật, bộ luật lớn được ban hành, sửa đổi, bổ sung: bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật dân sự, bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật lao động, bộ luật hàng hải, luật hàng không dân dụng Việt Nam, luật đất đai,…ngoài ra, còn có các luật về văn hóa – giáo dục, y tế, môi trường như: luật giáo dục, luật khoa học công nghệ, luật tài nguyên nước,… Quy trình xây dựng pháp luật được cải tiến, tổ chức lấy ý kiến của nhân dân các ngành, các cấp về các dự án quan trọng từng bước được đổi mới, qua đó phát huy được tinh thần làm chủ, ý thức trách nhiệm cao của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, cơ quan, đoàn thể, nhân dân cả nước. Ví dụ như: việc dự thảo nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sụng một số điều hiến pháp 1992 và nhiều dự thảo luật khác được nhân dân tích cực tham gia. Tuy nhiên, hoạt động lập pháp của Quốc hội cũng còn bộc lộ những hạn chế tồn tại như: các văn bản luật được thông qua nhiều nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, hiệu quả lập pháp chưa cao: có những văn bản chậm 5 – 6 năm, điển hình là bộ luật hình sự sửa đổi được đưa vào chương trình từ năm 1995, tới năm 1999 mới được thông qua, bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) được đưa vào chương trình từ năm 1995 nhưng phải tới năm 2003 mới được thông qua.chương trình xây dựng luật, trong cả nhệm kỳ mới chỉ thực hiện được 60 – 70% dự án luật, vẫn còn một số đạo luật chỉ dừng lại ở mức nguyên tắc, thiếu cụ thể, khó thực hiện. Ngoài ra, thẩm quyền giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH rất ít được thực hiện, trong khi các văn ban hướng dẫn của các cơ quan quản lý ngành lại rất nhiều, chậm và có khi mâu thuẫn, chồng chéo. Mặt khác, hoạt động lập pháp của Quốc hội còn phụ thuộc quá nhiều vào việc cơ quan quản lý ngành trực tiếp xây dựng văn bản. Giải pháp: đẩy mạnh hơn nữa hoạt động lập pháp, tạo cơ sở để hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta hiện nay. Tăng cường vai trò của các cơ quan của Quốc hội trong hoạt động lập pháp, chuyển trọng tâm của hoạt động này về hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Nâng cao chất lượng xây dựng luật: Các luật được ban hành cần được bảo đảm yêu cầu cụ thể, dễ thực hiện. Đổi mới cách thức hệ thống hóa tiến tới pháp điển hóa quy phạm pháp luật theo các lĩnh vực để thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật. Bên cạnh hoạt động lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội, việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước là hoạt động quan trọng của Quốc hội, thể hiện vai trò đại biểu cao nhất của nhân dân. Quốc hội các khóa đã quyết định kế hoạch và nhiệm vụ kinh tế xã hội, dự toán, phân bổ ngân sách, chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, điều chỉnh địa giới hành chính và thành lập các cơ quan cấp cao nhà nước, các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại của nước ta. Hoạt động của Quốc hội trong vấn đề kinh tế - ngân sách được tăng cường bằng việc Quốc hội thông qua các kế hoạch nhà nước 5 năm và kế hoạch kinh tế hàng năm. Quốc hội bước đầu quyết định những yêu cầu cơ bản, danh mục các công trình qua trọng của quốc gia: quốc hội cho ý kiến về các công trình lớn như nhà máy lọc đầu Dung Quất, thủy điện Sơn La,… Quốc hội quan tâm tới công tác xóa đói giảm nghèo, chính sách đầu tư, phát triển ở các xã đặc biệt khó khăn; xem xét, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong cả nước; các vấn đề bức xúc trong cuộc sống: thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu đã có tác dụng thiết thực, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Quốc hội cũng đã thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ bầu các chức danh lãnh đạo cấp cao của nhà nước: quyết định cơ cấu của ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, phê chuẩn việc bổ nhiệm các thành viên Chính phủ. Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động trong lĩnh vực này của Quốc hội còn nhiều thiếu sót: Quốc hội chưa thực hiện đầy đủ quyền quyết định phân bổ ngân sách nhà nước như hiến pháp, luật quy định. Việc xem xét quyết định các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các chương trình quốc gia, các dự án đầu tư lớn cũng mang tính hình thức, chất lượng hạn chế, trong khi yêu cầu xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước rất cấp bách. Việc xem xét, thông qua các đề án, báo cáo liên quan tới các tổ chức bộ máy nhà nước chưa được chú trọng. Phương hướng: cần cung cấp đầy đủ thông tin, gửi sớm tài liệu, tạo điều kiện để đại biểu quốc hội nghiên cứu, xem xét, quyết định việc thu, chi ngân sách, phân bổ ngân sách, xem xét thường xuyên và quyết định kịp thời các chương trình quan trọng của quốc gia. Cần có các chế tài để đại biểu Quốc hội trong trường hợp các cơ quan tổ chức cá nhân không thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin theo yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Cần nghiên cứu để có mạng lưới cộng tác viên cuat đại biểu Quốc hội dưới dạng hợp đồng theo công việc để giúp đại biểu Quốc hội trong các hoạt động chuyên môn. Quốc hội được Hiến pháp giao trọng trách thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Nội dung giám sát của Quốc hội tập trung vào việc thi hành hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết; hoạt động của các cơ quan nhà nước vào việc thi hành những nhiệm vụ quan trọng về kinh tế, ngân sách nhà nước, về dân tộc, miền núi, về giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, quốc phòng, an ninh, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đối ngoại và các vấn đề xã hội bức xúc. Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện tại kỳ họp và giữa 2 kỳ họp quốc hội. Tại kỳ họp Quốc hội, Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông qua việc nghe các cơ quan hữu quan báo cáo, ra nghị quyết về các vấn đề báo cáo; đồng thời thực hiện hoạt động chất vấn. Hoạt động này là 1 hình thức quan trọng để quyền giám sát của Quốc hội và đang được từng bước cải tiến. Tại nhiều kỳ họp Quốc hội, nhất là từ kỳ họp Quốc hội khóa X (1997), việc chất vấn được chú trọng phát triển. Trước đây, đại biểu ngại chất vấn, ít chất vấn, các vấn đề được trả lời bằng văn bản; việc trả lời trực tiếp tại hội trường chủ yếu là giải quyết các vấn đề chung. Trong các kỳ họp gần đây, ý kiến chất vấn của đại biểu Quốc hội rất đa dạng, liên quan đến hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước. Trung bình mỗi kỳ họp Quốc hội có khoảng 20 – 25% tổng số đại biểu Quốc hội nêu lên khoảng 150 – 200 ý kiến chất vấn. Hầu hết các ý kiến chất vấn đều được trả lời cụ thể. Thời gian trả lời trực tiếp chất vấn được bố trí nhiều hơn, có sự trao đổi, tranh luận giữa người chất vấn và người trả lời chất vấn. Các phiên họp Quốc hội hiện nay đã được truyền trực tiếp trên sóng truyền hình và sóng phát thanh, đồng thời được tường thuật tỉ mỉ trên các mát báo, điều này góp phần tích cực cho hoạt động giám sát của Quốc hội. Giữa hai kỳ họp của Quốc hội, quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao thông qua hoạt động của UBTVQH, HĐDT, các UB của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, cụ thể: UBTVQH và các cơ quan của Quốc hội tiếp tục giám sát việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, việc giải quyết các vấn đề đặt ra trong báo cáo giải quyết kiến nghị của cử tri và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Các đoàn đại biểu quốc hội đã xây dựng kế hoạch và thực hiện giám sát tại địa phương, đồng thời cử đại biểu tham gia cùng đoàn giám sát của các cơ quan Quốc hội tại địa phương. Một số ủy ban đã quan tâm phối hợp tốt với các đoàn đại biểu Quốc hội, hoạt động giám sát có hiệu quả tích cực hơn, góp phần tháo gỡ khó khăn, phát hiện và xử lý các vấn đề quan trọng; giúp địa phương thực hiện tốt chủ trương, chính sách và trách nhiệm của các địa phương. Vì thế hoạt động giám sát của Quốc hội ngày càng được nâng cao. Thông qua hoạt động giám sát, sự phối hợp hoạt động của Quốc hội và các cơ quan hữu quan ngày càng tốt hơn trong việc tìm ra giải pháp điều chỉnh. Bên cạnh những kết quả tích cực, hoạt động giám sát vẫn còn là khâu yếu, hoạt động còn hạn chế, có nhều hoạt động còn là hình thức, sự đổi mới còn chậm, hiệu quả ch