Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.” Bảo vệ nhân phẩm, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các tổ chức xã hội và do nhiều ngành luật điều chỉnh, trong đó có luật hình sự.
Trẻ em là những công dân nhỏ tuổi, là tương lai của đất nước nên càng phải được luật hình sự quan tâm đặc biệt. Do sự phát triển chưa đầy đủ về chất, về tâm, sinh lý, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ và khả năng tự bảo vệ mình nên các em rất dễ bị tổn thương về mọi mặt. Trong những năm trở lại đây, với sự gia tăng của các tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ em, mà nổi cộm là hiếp dâm trẻ em thì việc bảo vệ trẻ em khỏi những loại tội phạm này càng được các nhà làm luật hình sự quan tâm. Thể hiện ở các quy định của pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm trẻ em, tập trung là quy định tại Điều 112 BLHS năm 1999. Để có thể áp dụng đúng trên thực tế thì việc hiểu đúng quy định của pháp luật là một việc vô cùng cần thiết. Do đó, em chọn đề tài cho khóa luận là:
“TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TRONG BLHS NĂM 1999”
50 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 7529 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tội hiếp dâm trẻ em trong bộ luật hình sự năm 1999, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.” Bảo vệ nhân phẩm, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các tổ chức xã hội và do nhiều ngành luật điều chỉnh, trong đó có luật hình sự.
Trẻ em là những công dân nhỏ tuổi, là tương lai của đất nước nên càng phải được luật hình sự quan tâm đặc biệt. Do sự phát triển chưa đầy đủ về chất, về tâm, sinh lý, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ và khả năng tự bảo vệ mình nên các em rất dễ bị tổn thương về mọi mặt. Trong những năm trở lại đây, với sự gia tăng của các tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ em, mà nổi cộm là hiếp dâm trẻ em thì việc bảo vệ trẻ em khỏi những loại tội phạm này càng được các nhà làm luật hình sự quan tâm. Thể hiện ở các quy định của pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm trẻ em, tập trung là quy định tại Điều 112 BLHS năm 1999. Để có thể áp dụng đúng trên thực tế thì việc hiểu đúng quy định của pháp luật là một việc vô cùng cần thiết. Do đó, em chọn đề tài cho khóa luận là:
“TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TRONG BLHS NĂM 1999”
2.Mục đích và đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Đối tượng của việc nghiên cứu là Tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999. Luận văn có mục đích chính là làm rõ các quy định của BLHS năm 1999 về tội hiếp dâm trẻ em, tập trung vào Điều 112 BLHS năm 1999 đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về vấn đề này.
Xuất phát từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là:
- Nghiên cứu tài liệu, văn bản pháp luật có liên quan đến tội Hiếp dâm trẻ em, đặc biệt tập trung là giai đoạn hiệu lực BLHS năm 1999.
- Hệ thống hóa các quan điểm khoa học và làm rõ dấu hiệu pháp lý của tội Hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS năm 1999), phân biệt tội hiếp dâm trẻ em với một số tội khác cùng thuộc nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em như Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều), Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều), Tội giao cấu với trẻ em (Điều ).
- Làm rõ đường lối xét xử, các hình phạt áp dụng đối với Tội Hiếp dâm trẻ em.
- Nhận xét, đánh giá một số các quy định của BLHS năm 1999 về Tội hiếp dâm trẻ em, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về tội Hiếp dâm trẻ em nói chung và quy định của BLHS năm 1999 về Tội hiếp dâm trẻ em nói riêng.
3.Phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Trong phạm vi của khóa luận, chỉ tập trung nghiên cứu quy định của BLHS năm 1999 về Tội hiếp dâm trẻ em dưới góc độ luật hình sự.
4.Phương pháp nghiên cứu của khóa luận
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; dùng lý luận để phân tích những quy định của BLHS 1999 về tội Hiếp dâm trẻ em , đồng thời dùng những ví dụ thực tiễn để chứng minh cho những vấn đề lý luận . Các phương pháp được sử dụng để thực hiện đề tài bao gồm : Phương pháp phân tích, chứng minh, kết hợp với phương pháp so sánh, tổng hợp…
5.Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dsung của khóa luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Sơ lược lịch sử lập pháp hình sự Việt nam về tội Hiếp dâm trẻ em
- Chương 2: Tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999
- Chương 3: Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng Điều 112 BLHS và kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội Hiếp dâm trẻ em.
NỘI DUNG
Chương 1: Sơ lược lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm trẻ em
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS
- Ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thời kì này chính quyền non trẻ mới ra đời gặp rất nhiều khó khăn: nền kinh tế- xã hội lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tình hình tài chính cạn kiệt, tình hình rối ren thù trong giặc ngoài,…nên nhà nước ta chưa thể đủ điều kiện để xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Do tình thế hết sức khẩn trương, xã hội rất cần có pháp luật, mà lại không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết nói riêng trong đó có những quy định về tội phạm hiếp dâm nói chung và HDTE nói riêng nên ngày 10/10/1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL quy định cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ “Luật hình An nam”, Bộ “Hoàng Việt hình luật” và Bộ “Hình luật pháp tu chính” với điều kiện “không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt nam và chính thể dân chủ cộng hòa”.
- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các tòa án vẫn xử theo Luật hình cũ được tạm thời giữ lại. Tuy nhiên, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (năm 1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam còn tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ nên các điều kiện chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa xã hội ở miền Bắc có sự thay đổi mạnh mẽ, các luật lệ của chế độ cũ không còn phù hợp. Do đó, để phù hợp với tình hình mới từ năm 1955, toàn bộ các luật cũ không còn được áp dụng nữa và các tòa án bắt đầu xử theo án lệ, theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước [21]. Cho tới thời điểm này Nhà nước ta vẫn chưa ban hành một văn bản pháp luật hình sự mới quy định về tội hiếp dâm nói chung cũng như hiếp dâm trẻ em nói riêng.
- Trước tình hình thiếu thốn quy định về tội hiếp dâm nói chung, hiếp dâm trẻ em nói riêng và thực trạng gia tăng các tội phạm này, ngày 15/6/1960 Tòa án nhân dân tối cao ra chỉ thị số 1024 hướng dẫn xử lý tội phạm hiếp dâm nhằm khắc phục khuynh hướng coi nhẹ tính chất nghiêm trọng của tội này nhất là khuynh hướng coi nhẹ tội hiếp dâm mà nạn nhân là trẻ em.
- Để các quy định của pháp luật được đầy đủ và toàn diện hơn đồng thời giúp cho việc xét xử trên thực tiễn được dễ dàng và thuận lợi, năm 1967, trên cơ sở kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967 hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm trẻ em và các tội phạm khác xâm phạm về mặt tình dục.
+Bản tổng kết này đề cập một cách toàn diện đến 4 hình thức phạm tội: hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm trẻ em), cưỡng dâm (trong đó có cưỡng dâm trẻ em), giao cấu với người dưới 16 tuổi, và dâm ô (trong đó có dâm ô với trẻ em). Như vậy, hiếp dâm trẻ em được ghi nhận là thuộc nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em và là một hình thức phạm tội hiếp dâm.
+Các đặc điểm riêng của hành vi hiếp dâm trẻ em cũng được nhấn mạnh ngay trong phần khái niệm của tội hiếp dâm.
+Bản tổng kết cũng đưa ra hướng dẫn về cách định tội danh, phân biệt hiếp dâm trẻ em với trường hợp giao cấu với người đưới 16 tuổi. Cụ thể là:
“ Các hành vi giao cấu với các em đưới 13 tuổi tròn nói chung, không kể các em có sự thỏa thuận hay không thỏa thuận đề phải coi là hiếp dâm vì trí óc non nớt của các em, phải coi các em ở trong tình trạng không thể tự vệ và biểu lộ ý chí đúng đắn. Riêng đối với các em từ 13 tuổi tròn đến 14 tuổi tròn, trong một số trường hợp cá biệt, có em đã dậy thì thì có thể thực sự thuận tình giao cấu. Cho nên, khi có sự thuận tình giao cấu với các em đó, cần căn cứ vào mọi tình tiết của vụ án (như tính tình, thân hình, thái độ các em) để nhận định xem có tội hiếp dâm trẻ em hay là tội giao cấu với người dưới 16 tuổi…” [22, tr. 391-392]
+ Bản tổng kết 329-HS2 chỉ ra đường lối xử lý đối với hành vi xâm phạm tình dục trẻ em nói chung cũng như hành vi hiếp dâm trẻ em nói riêng là theo hướng xử nặng. Bản tổng kết chỉ rõ những trường hợp cần xử nặng, những trường hợp cần xử nhẹ hơn so với trường hợp bình thường. Cụ thể: xử nặng đối với những hành vi hiếp dâm người đưới 18 tuổi, hiếp dâm người thân về trực hệ, hiếp dâm nhiều người, hiếp dâm vì động cơ đê hèn,…và xử nhẹ hơn đối với những trường hợp phạm tội chưa đạt, tác hại còn hạn chế, bị cáo còn ít tuổi, có tình tiết về nhân thân bị can như có cống hiến, thái độ hối cải…
Trong khi chờ pháp luật có quy định đầy đủ và toàn diện hơn thì bản tổng kết này có ý nghĩa rất lớn, nó “…tổng kết kinh nghiệm những năm qua, rút ra và chỉ thêm một số điểm để hướng dẫn công tác xét xử một số loại tội phạm về mặt tình dục được tôt hơn, đồng thời sơ bộ dùng làm cơ sở cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật góp phần đấu tranh ngăn ngừa tội phạm.” [20, tr.389]. Bản tổng kết 329-HS2 ngày 11/5/1967 này đã được sử dụng cho đến khi BLHS 1985 ra đời và có hiệu lực.
Ngoài ra, trong thời kì trước hiệu lực của BLHS năm 1985, tại Miền Nam cũng ban hành một số các quy định của pháp luật hình sự trong đó có đề cập đến hành vi hiếp dâm vị thành niên nói chung và trẻ em nói riêng.
Tiêu biểu nhất là Bộ Hình Luật ngày 20/12/1972 do Chính quyền Sài Gòn ban hành. Bộ Hình Luật này có nhiều điều khoản quy định việc trừng trị các tội xâm phạm tình dục, đặc biệt là quy định về các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Các Điều 355, 356 Bộ Hình Luật quy định kẻ hiếp dâm vị thành niên dưới 15 tuổi sẽ bị phạt khổ sai hữu hạn.
Ngay sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng thì Hội đồng Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng ban hành Sắc luật 03/SL ngày 15/3/1976 quy định các tội phạm và hình phạt làm cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, tài sản công cộng, thân thể và các quyền lợi khác của công dân…Trong đó, Điều 5 về tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân có quy định ở điểm c như sau: “…hiếp dâm vị thành niên thì bị phạt từ từ 5 năm đến 7 năm, trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì phạt tù từ 20 năm, chung thân hoặc bị xử tử hình”. Đây là mức hình phạt rất nghiêm khắc đối với hành vi phạm tội hiếp dâm vị thành niên nói chung và hiếp dâm trẻ em nói riêng.
Tiếp theo đó, để thực hiện Nghị quyết 76/CP của Hội đồng chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 6/7/1977 Tòa án nhân dân tối cao đã ra Chỉ thị số 54/TANDTC hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất trong cả nước trong đó nói rõ việc áp dụng Điều 5 Sắc luật 03/SL. Từ đây, Sắc luật 03/SL được sử dụng cho đến khi BLHS năm 1985 ra đời và có hiệu lực.
Như vậy:
- Về mặt hình thức: Nhìn chung, pháp luật trong giai đoạn này còn thiếu nhiều, chủ yếu xét xử theo án lệ thông qua công tác tổng kết và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Nói cách khác, trước khi BLHS ra đời thì quy định về tội hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm trẻ em) mới chỉ có trên văn bản dưới luật. Do đó, giá trị pháp lý của các văn bản này chưa cao, quy định còn chưa cụ thể, rõ ràng, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, gặp nhiều vướng mắc trong quá trình xét xử, làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử cũng như hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm này. Mặt khác, mặc dù trong phần nói về khái niệm của tội hiếp dâm, bản tổng kết 329-HS2 ngày 11/5/1967 cũng đã đề cập đôi chút đến hành vi giao cấu với các em dưới 13 tuổi tròn, và từ 13 tuổi tròn đến 14 tuổi tròn nhưng tội hiếp dâm trẻ em vẫn chưa được quy định riêng thành một tội danh độc lập, hình phạt đối với tội Hiếp dâm trẻ em cũng không quy định thành một khung cụ thể mà phải xác định dựa vào các tình tiết quy định tại Khoản 2 phần B-quy định về hình phạt của tội hiếp dâm.
- Về mặt nội dung: Hành vi hiếp dâm trẻ em đã được chú trọng về tính chất, mức độ nguy hiểm và đường lối xử lý so với các tội phạm khác cũng như so với hành vi hiếp dâm các đối tượng khác. Bản tổng kết 329-HS2 có đoạn: “…trong tình hình chiến sự hiện nay…loại tội phạm này càng nguy hiểm nhiều cho việc bảo vệ trật tự trị an…Đặc biệt đối với hành vi hiếp dâm trẻ em…chúng ta cần thấy tính chất vô nhân đạo của nó và coi đó là những hành vi hết sức nguy hiểm trong chế độ chúng ta…”. Hoặc như trong thông báo về Hội nghị ban bí thư trung ương Đảng ngày 25/3/1963 bàn về phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 1963 của ngành tòa án nhân dân, điểm 3 có nói: “Đấu tranh chống tệ nạn xã hội đặc biệt phải nghiêm trị tội giết người, tội hiếp dâm trẻ em”.
Với những đặc điểm về hình thức và nội dung như trên thì một nhu cầu được đặt ra là phải có một văn bản tổng hợp toàn diện, thống nhất các văn bản pháp luật hình sự nói chung và các quy định về hành vi hiếp dâm trẻ em nói riêng. Đó chính là BLHS năm 1985.
Giai đoạn áp dụng hiệu lực của BLHS năm 1985
Đến năm 1985, BLHS đầu tiên ra đời và có hiệu lực từ ngày 1/1/1986 đã là một bước tiến quan trọng, thể hiện sự phát triển về chất của công tác lập pháp trong lĩnh vực hình sự. Tội hiếp dâm (bao gồm cả hành vi hiếp dâm trẻ em) đã được quy định một cách tương đối rõ ràng, đầy đủ. Điều 112 BLHS năm 1985 quy định về Tội hiếp dâm bao gồm 4 khoản:
“ Người nào dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác gia cấu với người khác trái ý muốn của họ thì bị phạt tù từ một đến năm năm;
Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ 13 tuổi trở lên hoặc là người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm:
a) Hiếp dâm có tổ chức hoặc nhiều người hiếp một người;
b) Hiếp nhiều người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân;
c) Tái phạm nguy hiểm;
3. Phạm tội làm nạn nhân chết, tự sát hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là phạm tội hiếp dâm và người phạm tội bị phạt theo các khoản 2 và 3 điều này.”
Ở đây, hiếp dâm trẻ em đã được coi như một tình tiết tăng nặng của Tội hiếp dâm. Điều này thể hiện rõ quan điểm xử nặng đối với hành vi hiếp dâm trẻ em đồng thời thể hiện sự quan tâm đặc biệt của các nhà làm luật đối với đối tượng trẻ em.
Khoản 4 Điều 112 quy định mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi được dẫn chiếu đến cơ sở pháp lý đến quy định về Tội hiếp dâm tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 112. Đây là điểm bất hợp lý vì chỉ truy cứu TNHS theo các khoản này nếu thỏa mãn các tình tiết định khung tăng nặng được quy định ở các khoản đó. Để khắc phục hạn chế trên, tại lần sửa đổi bổ sung lần thứ hai của BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 12/8/1991 đã tăng khung hình phạt tại Khoản 4 Điều 112 như sau: “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là phạm tội hiếp dâm và người phạm tội bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 điều này thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”.
Quy định này thực sự đã giải quyết được vấn đề bất hợp lý trước đây cũng như đã có tính phân hóa tội phạm cao hơn. Tuy nhiên, mặc dù đã qua hai lần sửa đổi bổ sung nhưng hiếp dâm trẻ em vẫn chỉ là quy định nằm trong điều luật về tội hiếp dâm. Thêm vào đó, tình hình phạm tội hiếp dâm nói chung và hiếp dâm trẻ em nói riêng không hề giảm đi mà còn có chiều hướng gia tăng nên Tòa án nhân dân tối cao đã ra Công văn số 73/TK ngày 2/3/1995 hướng dẫn về đường lối xét xử loại tội phạm tình dục trẻ em. Công văn có đoạn: “Toà án nhân dân tối cao yêu cầu toà án nhân dân các địa phương chủ động làm việc với các cơ quan Công an và Viện kiểm sát cùng cấp nắm tình hình và có kế hoạch phối hợp ngay từ giai đoan điều tra để nhanh chóng đưa ra truy tố, xét xử những người có hành vi hiếp dâm trẻ em,…” và khi xét xử “phải xử thật nghiêm khắc với hình phạt cao trong khung hình phạt quy định tại các điều luật áp dụng, đồng thời phải áp dụng thêm hình phạt bổ sung…” [19, tr.427]
Để phân hóa tội phạm rõ ràng hơn nữa, tại lần sửa đổi bổ sung lần thứ tư của BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 đã tách đoạn 2 Khoản 1 và Khoản 4 của Điều 112 thành một tội riêng, được quy định tại Điều 112a “tội hiếp dâm trẻ em” với mức hình phạt rất nghiêm khắc:
“1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây tổn hại nặng cho sức khỏe của nạn nhân;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Nhiều người hiếp một người;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Gây tổn hại rất nặng cho sức khỏe của nạn nhân;
đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm và người phạm tội bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.”
Việc quy định hành vi hiếp dâm trẻ em thành một tội riêng với mức hình phạt cao thể hiện thái độ đặc biệt nghiêm khắc của nhà làm luật đối với loại tội phạm có tính phi đạo đức cao này. Đồng thời, việc quy định như trên trong BLHS là cần thiết và cấp bách để xử lý nghiêm đối với loại tội phạm này, phù hợp với tình hình và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm hiếp dâm trẻ em.
Đây là một điểm đáng chú ý trong pháp luật hình sự Việt Nam. Qua tìm hiểu các quy định của BLHS một số nước như Nhật Bản, Thụy Điển, Trung Quốc,…cho thấy, trong BLHS các nước này đều không quy định hiếp dâm trẻ em thành một tội danh độc lập. Hiếp dâm trẻ em hoặc hiếp dâm người chưa thành niên chỉ là trường hợp đặc biệt của tội Hiếp dâm. Người phạm tội hiếp dâm trẻ em chưa đủ 14 tuổi hoặc hiếp dâm người chưa thành niên sẽ bị xử phạt nặng hơn so với những trường hợp phạm tội hiếp dâm đối với người đã thành niên. Ví dụ Điều 236 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Người nào phạm tội dùng bạo lực, bắt ép hoặc các thủ đoạn khác hiếp dâm phụ nữ thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. Giao cấu với trẻ em gái dưới mười lăm tuổi coi như phạm tội hiếp dâm, bị xử phạt nặng hơn…”[14, tr. 47] . Trong khi đó, hiếp dâm trẻ em lại được quy định thành một tội danh độc lập, điều này chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của pháp luật hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ trẻ em khỏi các tội phạm xâm phạm tình dục nói chung và tội phạm hiếp dâm nói riêng.
Sau khi Điều 112a được bổ sung, tại Thông tư liên tịch số 01/1998/TANDTC-VKSNDTC-BNV đã có hướng dẫn áp dụng Khoản 4 Điều 112a: “Độ tuổi của người bị hại càng nhỏ thì mức án xử phạt đối với người phạm tội càng cao”. Cụ thể là :xử phạt hai mươi năm, nếu người bị hại là trẻ em từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 13 tuổi ; Xử phạt tù chung thân hoặc tử hình nếu người bị hại là trẻ em chưa đủ 6 tuổi. Nếu có nhiều tình tiết tăng tặng tại Điều 39 BLHS hoặc có tình tiết định khung hình phạt tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 112a thì dù nạn nhân đủ 6 tuổi trở lên cũng phải xử phạt tù chung thân hoặc tử hình.
Có thể nói BLHS năm 1985 là một bước ngoặt đáng kể trong lịch sử lập pháp nước ta. Với BLHS năm 1985 lần đầu tiên kể từ khi tuyên ngôn độc lập, nước ta có một văn bản luật hình sự thống nhất, không nằm rải rác trong nhiều văn bản như trước đây nữa. Qua các lần sửa đổi bổ sung, các quy định về tội hiếp dâm trẻ em cũng ngày càng được các nhà làm luật quan tâm đúng mức. Về hình thức, tội hiếp dâm trẻ em đã được tách ra một cách tương đối với Tội hiếp dâm nói chung (được quy định tại Điều 112a) chứ không đơn thuần chỉ là một tình tiết tăng nặng của Tội hiếp dâm nữa. Về mặt nội dung, dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em cũng được quy định rõ ràng hơn, đặc biệt là các cấu thành tăng nặng của tội này
So với quy định của BLHS năm 1999 về Tội hiếp dâm trẻ em thì quy định của Điều 112a BLHS năm 1985 ở các Khoản 2,3,4 nặng hơn. Do đó, những hành vi phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1/7/2000 mà sau 0 giờ ngày 1/7/2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng quy định của BLHS năm 1985 về tội này mà áp dụng Khoản 2 Điều 2 BLHS năm 1999 đối với người phạm tội.
Chương 2: Tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999
Tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999 được quy định tại Điều 112 như sau:
“1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhan có thai;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù hai mư