Trong bất cứ quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng và là một trong những dấu hiệu để xác định mối quan hệ nào đó thuộc sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nào. Luật Quốc tế là hệ thống pháp luật được tập hợp từ nhiều văn bản từ nhiều nguồn khác nhau. Việc nghiên cứu về chủ thể là rất cần thiết vì giúp tìm ra đâu là nguồn của luật, quan hệ nào thuộc sự điều chỉnh của luật.
Chức năng chính của Luật quốc tế từ khi mới xuất hiện đến nay là điều chỉnh các mối quan hệ giữa các nhà nước với nhau, bởi vậy chủ thể chính của luật quốc tế trong lịch sử phát triển của nó là các quốc gia. Nhưng từ những năm 20 của thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai trong khuôn khổ của luật quốc tế xuất hiện một ngành mới là luật về quyền con người. Quyền con người không còn là đối tượng điều chỉnh của hệ thống luật của từng quốc gia nữa đã làm nảy sinh ra vấn đề: cá nhân con người có phải là chủ thể của luật quốc tế hay không? Có quan điểm cho rằng: “Trong thực tiễn, cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của luật quốc tế”.
Nhận thấy đây là một đề tài hay, em xin đi sâu phân tích, bình luận để làm rõ quan điểm nói trên. Vì còn hạn chế về kiến thức, thời gian cũng như kinh nghiệm nên bài làm của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự thông cảm và góp ý chân thành từ các thầy, cô giáo.
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2377 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Trong thực tiễn, cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bất cứ quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng và là một trong những dấu hiệu để xác định mối quan hệ nào đó thuộc sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nào. Luật Quốc tế là hệ thống pháp luật được tập hợp từ nhiều văn bản từ nhiều nguồn khác nhau. Việc nghiên cứu về chủ thể là rất cần thiết vì giúp tìm ra đâu là nguồn của luật, quan hệ nào thuộc sự điều chỉnh của luật.
Chức năng chính của Luật quốc tế từ khi mới xuất hiện đến nay là điều chỉnh các mối quan hệ giữa các nhà nước với nhau, bởi vậy chủ thể chính của luật quốc tế trong lịch sử phát triển của nó là các quốc gia. Nhưng từ những năm 20 của thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai trong khuôn khổ của luật quốc tế xuất hiện một ngành mới là luật về quyền con người. Quyền con người không còn là đối tượng điều chỉnh của hệ thống luật của từng quốc gia nữa đã làm nảy sinh ra vấn đề: cá nhân con người có phải là chủ thể của luật quốc tế hay không? Có quan điểm cho rằng: “Trong thực tiễn, cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của luật quốc tế”.
Nhận thấy đây là một đề tài hay, em xin đi sâu phân tích, bình luận để làm rõ quan điểm nói trên. Vì còn hạn chế về kiến thức, thời gian cũng như kinh nghiệm nên bài làm của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự thông cảm và góp ý chân thành từ các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
Khái niệm chủ thể của Luật quốc tế
Chủ thể chiếm vị trí trung tâm trong luật quốc tế với nhiệm vụ chính là phục vụ các quyền lợi của chủ thể, điều tiết các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Bản tính của luật quốc tế gắn liền với tính chất của chủ thể và mối quan hệ đó. Chủ thể luật quốc tế không những là chủ các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ quốc tế, mà còn là những chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình thiết lập và thi hành các qui tắc của luật quốc tế. Như vậy chủ thể của luật quốc tế là những thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ quyền, nghĩa vụ và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện. Quốc gia chính là chủ thể chủ yếu của luật quốc tế, các tổ chức quốc tế liên quốc gia cũng được thừa nhận là chủ thể phái sinh của luật quốc tế. Đây là những thực thể được hình thành bởi sự liên kết của các quốc gia độc lập, có chủ quyền, vì mục đích hợp tác quốc tế đa dạng, đa lĩnh vực và hướng đến lợi ích phát triển của từng quốc gia cũng như của cộng đồng quốc tế.
Khi nói đến chủ thể của luật quốc tế, chúng cần phải tham gia vào quá trình thiết lập các quy tắc của luật quốc tế. Và tất nhiên, trong trường hợp đó, cá nhân không phải là chủ thể của luật quốc tế. Nhưng cũng có thể định nghĩa một cách khác rằng chủ thể của luật quốc tế là bất kỳ một thực thể nào có quyền và nghĩa vụ pháp lý từ các điều luật của công pháp quốc tế.
Như vậy, trong luật quốc tế có ít nhất hai dạng chủ thể. Dạng thứ nhất là các tổ chức không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế mà còn trực tiếp tạo ra các điều luật quốc tế, thực hiện các biện pháp để đảm bảo cho việc áp dụng các điều luật đó trên thực tế. Đó là các quốc gia có chủ quyền- chủ thể chính của luật quốc tế. Dạng thứ hai là các tổ chức mà các hoạt động của chúng được điều tiết bởi luật quốc tế nhưng không có những đặc điểm của dạng thứ nhất. Vậy cá nhân có thuộc dạng chủ thể này không? Hiện nay có rất nhiều quan điểm trái chiều nhau cho rằng cá nhân là chủ thể của luật quốc tế; cũng có quan điểm cho rằng cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của luật quốc tế.
Chủ thể của luật quốc tế có những đặc điểm sau: năng lực pháp luật, năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể luật quốc tế có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Năng lực hành vi thể hiện qua sự thực hiện có ý thức các quyền và nghĩa vụ của chủ thể luật quốc tế. Chủ thể của luật quốc tế có năng lực trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm pháp luật quốc tế của mình. Những tính chất trên được gọi là tính chủ thể pháp lý. Chủ thể của luật quốc tế có tính chủ thể pháp lý chung, tính chủ thể pháp lý ngành và tính chủ thể đặc biệt.
Tính chủ thể pháp lý chung là khả năng của tổ chức được công nhận là chủ thể của luật quốc tế theo ipso facto. Chỉ có các quốc gia có chủ quyền mới có tính chủ thể chung.
Tính chủ thể ngành là khả năng của tổ chức được công nhận là chủ thể của luật quốc tế ở một lĩnh vực nhất định trong quan hệ quốc tế. Ví dụ Tổ chức hàng hải quốc tế có quyền tham gia vào các vấn đề vận chuyển đường biển quốc tế; hoặc UNESCO tham gia vào việc điều tiết những vấn đề liên quan đến giáo dục, khoa học và văn hoá thế giới.
Tính chủ thể đặc biệt là khả năng của chủ thể tham gia hoạt động pháp lý trong khuôn khổ nhất định ở một lĩnh vực riêng biệt của luật quốc tế. Đó chính là cá nhân con người. Tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân được công nhận trong nhiều văn bản, tư liệu của luật quốc tế như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 (Điều 6), Công ước quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị 1966 (Điều 2), Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của kiều dân và gia đình, thành viên gia đình của họ 1990 (Điều 8).
Những quan điểm khác nhau về tính chủ thể của cá nhân trong Công pháp quốc tế
Trong suốt lịch sử phát triển của mình, luật quốc tế, trong một thời gian dài, đã phủ nhận cá nhân con người là chủ thể của luật quốc tế và chỉ quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai tình thế đã thay đổi, công pháp quốc tế hiện đại gắn chặt với vấn đề nhân quyền. Hiến chương Liên hợp quốc xác định một trong những mục đích chính của mình là tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Nhiều điều ước, quốc tế về quyền con người đã được ký kết. Thế nhưng cá nhân có là chủ thể của công pháp quốc tế hay không hiện là một vấn đề đang được tranh cãi. Có quan điểm cho rằng trong thực tiễn, cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của luật quốc tế. Em đồng ý với quan điểm này. Sau đây là những điểm cơ bản em tìm hiểu được dùng để chứng minh cho quan điểm trên:
Một là, về đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế:
Hiện nay, Luật Quốc tế điều chỉnh các quan hệ quốc tế phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu và quan trọng nhất vẫn là chính trị. Xu hướng tất yếu hiện nay đó là tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng ẩn sau hầu hết các quan hệ này đều ít nhiều có liên quan đến chính trị. Trong khi đó, các quan hệ mà cá nhân tham gia lại chủ yếu là các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) - phi chính trị.
Vì thế có thể nói rằng các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia với các quan hệ mà Luật Quốc tế điều chỉnh là không thống nhất với nhau.
Hai là, về các đặc điểm cơ bản để xác định một thực thể là chủ thể của Luật quốc tế:
Chủ thể của Luật Quốc tế là những thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ và khả năng gánh vác các trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện. Qua đó, ta có thể rút ra được các dấu hiệu cơ bản của chủ thể Luật Quốc tế và theo quan điểm của em thì cá nhân không đáp ứng được các dấu hiệu cơ bản sau đây để trở thảnh chủ thể của Luật Quốc tế:
Thứ nhất, thực thể đang và có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế.
Một số tác giả đã viện dẫn các Điều ước Quốc tế về quyền con người (ví dụ như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948), về vị thế pháp lý của một số nhóm cá nhân trong Luật Quốc tế (Công ước Quốc tế về quyền của người tị nạn 1951), hay quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên các Tòa án Quốc tế (Điều 190 Công ước Quốc tế về Luật Biển 1982 cá nhân có quyền được đưa đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án Quốc tế về biển), khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế (ví dụ như Điều lệ Tòa án binh quốc tế 1945, Công ước Quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948...). Thực tế cho thấy rằng cá nhân chỉ có khả năng tham gia “rất hạn hữu” vào một số các quan hệ quốc tế xác định hoặc tham gia các quan hệ này một cách gián tiếp thông qua Nhà nước. Điều này xuất phát từ những quyền tự nhiên của con người, vị thế của công dân của quốc gia.
Thứ hai, chủ thể Luật Quốc tế có ý chí độc lập, không phụ thuộc vào các chủ thể khác.
Hiện nay, khi tham gia vào tất cả các quan hệ của đời sống xã hội thì cá nhân vẫn chịu một sự chi phối rất lớn từ ý chí, từ quyền lực chính trị của chủ thể đặc biệt đó là Nhà nước. Một mặt, cá nhân không được làm trái, đi ngược lại các quy định của pháp luật quốc gia. Đồng thời chủ thể này không thể tự mình tham gia vào một số các quan hệ quốc tế mà phải thông qua nhà nước.
Thứ ba, được hưởng quyền và các nghĩa vụ pháp lý quốc tế và gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi của mình gây ra.
Một số nhà luật học đã dựa vào những căn cứ như trên đã đề cập, họ chứng minh rằng cá nhân vẫn được hưởng quyền và các nghĩa vụ cũng như gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế như các chủ thể khác của luật quốc tế. Họ cho rằng cá nhân chỉ có thể là chủ thể của các quan hệ pháp lý quốc tế. “Cá nhân do chịu sự cai trị của quốc gia không thể thay mặt mình hoạt động trên trường quốc tế như một chủ thể của luật quốc tế – B.M Shurshaloff V.M viết- Tất cả các Công ước quốc tế về quyền và bảo vệ quyền con người được ký kết giữa các quốc gia với nhau. Vì vậy những quyền và nghĩa vụ cụ thể được phát sinh ra từ những Công ước này là dành cho nhà nước chứ không cho từng cá nhân. Cá nhân được quốc gia bảo trợ, và những qui tắc của luật quốc tế về quyền và bảo vệ quyền con người được thực hiện chủ yếu qua hoạt động của quốc gia”
Thứ tư, không một chủ thể nào có quyền tài phán chủ thể của Luật Quốc tế, trên nó không tồn tại quyền lực chính trị nào chi phối hoạt động của nó và khi tham gia vào các quan hệ quốc tế thì các chủ thể có vị trí độc lập, bình đẳng với nhau.
Trong mối tương quan về địa vị pháp lý trong Luật quốc gia thì nhà nước luôn có quyền tài phán đối với công dân nước mình, phần lớn các quan hệ phát sinh giữa cá nhân với nhà nước đều được điều chỉnh bởi phương pháp quyền uy, mệnh lệnh phục tùng. Mặt khác, chúng vẫn có thể bị tài phán bởi các cơ quan quốc tế khác (ví dụ như Tòa án binh Quốc tế) theo Luật Quốc tế. Vì vậy, khi tham gia vào các hoạt động, cá nhân luôn bị chi phối ảnh hưởng bởi quyền lực chính trị và khi tham gia vào quan hệ với các chủ thể khác của Luật Quốc tế thì chúng khó có thể có được vị trí độc lập và bình đẳng.
Ngoài quan điểm nói trên, trên thế giới còn xuất hiện các quan điểm của các nhà luật học khác cho rằng cá nhân chính là chủ thể của Luật quốc tế. Các nhà luật học ở Việt Nam cũng không ngoại lệ. Điển hình như bài viết “Cá nhân- chủ thể của Luật quốc tế” tác giả Nguyễn Đức Lam cho rằng chúng ta có thể tạm thời cho rằng cá nhân là một trong những chủ thể của Luật Quốc tế. Cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ điều Luật Quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền con người và trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các Toà án Quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó…
Tính chủ thể pháp lý của cá nhân được thể hiện ở chỗ cá nhân cũng gánh vác trách nhiệm và nghĩa vụ cũng như hưởng các quyền lợi mà Luật Quốc tế quy định, bởi suy cho cùng hành vi của từng cá nhân trong một quốc gia là cách thức quốc gia đó thực hiện quyền và nghĩa vụ quốc tế. Ngoài ra, để pháp điển hóa các quy định của pháp luật quốc tế, các quốc gia phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo khung pháp lí cho việc áp dụng các quy định đó trong đời sống xã hội. Như vậy, việc này đã gián tiếp công nhận các cá nhân của quốc gia đó, chính là những người trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ quốc tế của quốc gia mình.
Mặt khác, trong rất nhiều văn bản pháp luật quốc tế, cá nhân được đem ra xem xét như là một chủ thể của quan hệ pháp luật này và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình.Theo Điều 1 Quy chế Tòa án hình sự quốc tế thì Tòa án có quyền xét xử đối với những cá nhân về những tội phạm hình sự quốc tế nguy hiểm nhất được quy định trong Quy chế. Cũng theo Điều 5 Quy chế này thì Tòa án sẽ xét xử đối với hầu hết những tội phạm nguy hiểm nhất do cá nhân thực hiện, đó là tội diệt chủng, tội ác chống loài người, tội ác chiến tranh và tội gây chiến tranh xâm lược. Điều lệ của Tòa án binh 1945 ở Nurnberge và Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948 cũng thừa nhận như trên.
Nếu công nhận cá nhân là chủ thể Luật Quốc tế đồng nghĩa sẽ thể chế những quy định về quyền con người được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc là tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Khi đó, cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ điều Luật Quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền con người và trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các Toà án Quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó. Và lẽ tất nhiên những viện dẫn vào nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ của nước khác để cản trở sự điều tiết của Luật Quốc tế đối với vấn đề quyền con người sẽ không còn tồn tại nhiều như hiện nay. Nhưng đứng ở góc độ quốc gia thì sẽ phát sinh hiện tượng dựa vào con bài nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền và sẽ lại vi phạm nguyên tắc chủ quyền quốc gia.
Vì vậy, ở đây nên có một cách nhìn đúng đắn và những việc làm cụ thể để quyền con người được thực hiện mà chủ quyền của quốc gia vẫn được toàn vẹn. Và cũng cần nhấn mạnh rằng chủ yếu không phải là tuyên bố một cách hình thức về tính chủ thể pháp lý cá nhân, về quyền con người mà tìm các biện pháp hữu hiệu để cho quyền con người được đảm bảo trong mối tương hỗ giữa nội Luật và Công pháp Quốc tế, trong sự hợp tác quốc tế giữa các tổ chức, quốc gia với nhau. Mặt khác việc cá nhân ngày càng tích cực tham gia vào hoạt động trên trường quốc tế làm cho các hoạt động này phức tạp hơn, khó điều khiển hơn, như ý kiến của Brownlee cho rằng “thật là vô ích nếu như xếp cá nhân vào “hàng ngũ” những chủ thể của Luật Quốc tế, bởi vì làm như vậy là vô hình chung công nhận một số quyền của cá nhân mà trên thực tế không có, phủ nhận tính tất yếu của sự khác biệt giữa cá nhân và các chủ thể khác trong luật quốc tế”
Tóm lại, dù có rất nhiều các quan điểm, ý kiến trái ngược nhau, nhưng có thể khẳng định rằng, cá nhân có thể tham gia một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của luật quốc tế.
Thực tiễn áp dụng các quan điểm ở Việt Nam
Thực tiễn ở Việt Nam
Do đặc thù của xu thế hợp tác và phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu như hiện nay, vai trò của các cá nhân trong các quan hệ quốc tế ngày càng gia tăng. Dẫn đến khả năng thừa nhận có sự tham gia của các cá nhân trong một số lĩnh vực nhất định của quan hệ pháp luật quốc tế, ví dụ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhân đạo, nhân quyền, môi trường quốc tế…
Tuy nhiên, ở Việt Nam, chủ thể của Luật Quốc tế vẫn theo quan điểm truyền thống. Nghĩa là chỉ công nhận các quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền dân chủ tự quyết, tổ chức quốc tế liên Chính phủ và những chủ thể đặc biệt khác là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế.
Ví dụ liên hệ
Vụ Trung Quốc bắt giữ ngư dân Việt Nam năm 2009:
Trung Quốc chính thức ban hành lệnh cấm đánh bắt cá từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 1 tháng 8 năm 2009 tại một số vùng biển, trong đó có những khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông và đã điều 8 tàu tuần tra để theo dõi giám sát khu vực rộng 128.000 km2 tại đây.
Diễn biến vụ việc:
Ngày 21 tháng 6 năm 2009, lực lượng tuần tra Trung Quốc đã bắt ba tàu cá gồm 37 ngư dân tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam, khi họ đang hành nghề đánh cá bình thường tại khu vực vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ngày 25 tháng 6, Trung Quốc thả 2 tàu cá cùng 25 ngư dân và tiếp tục giữ 1 tàu cá và 12 người còn lại. Phía Trung Quốc ra điều kiện khi nào ngư dân Việt Nam nộp đủ số tiền phạt là 210.000 nhân dân tệ sau 10 ngày thì họ mới thả những người còn lại.
Ngày 1 tháng 8, 13 ngư dân Việt Nam khác vào tránh bão tại Hoàng Sa thì bị phía Trung Quốc bắt giữ.
Ngày 11 tháng 8, sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh đã được thông báo là phía Trung Quốc sẽ thả tự do cho những ngư dân bị bắt và đến ngày 14 tháng 8, tổng cộng 25 ngư dân bị bắt trong 2 đợt trên đã được về nhà. Quan điểm của phía Việt Nam là không nộp tiền phạt, vì điều đó đồng nghĩa với thừa nhận chủ quyền và quyền chủ quyền của Trung Quốc tại các vùng tranh chấp ở Biển Đông.
Các cuộc tranh chấp như thế này thì những ngư dân Việt Nam không thể tự mình giải quyết cũng như tự đứng ra để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình được mà đều phải thông qua các cơ quan có thẩm quyền (thường là Bộ ngoại giao) giải quyết bằng con đường ngoại giao. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, trong các vụ tranh chấp về biển - tranh chấp quốc tế, thì mặc dù là người trực tiếp liên quan đến vụ việc nhưng bản thân cá nhân các ngư dân không thể tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế này cũng như không thể có ý chí độc lập mà phải phụ thuộc vào các chủ thể khác. Mà những điều kiện trên đều là những dấu hiệu cơ bản , đặc trưng của chủ thể của luật quốc tế. Vì vậy, qua ví dụ trên phần nào chúng ta đã biết được cá nhân khó có thể trở thành chủ thể của Luật Quốc tế.
KẾT LUẬN
Luật Quốc tế cũng như Luật quốc gia đều có sự phát triển, thay đổi theo quá trình phát triển khách quan của xã hội. Vì vậy với sự phát triển và hội nhập toàn cầu như hiện nay thì mở rộng khái niệm “Luật Quốc tế” là điều cần thiết nhưng cần có sự nhìn nhận phù hợp với khoa học pháp lý của từng chế độ, từng hình thức chính trị của mỗi quốc gia. Mặc dù có rất nhiều các quan điểm, ý kiến trái ngược nhau, nhưng có thể khẳng định rằng, cá nhân có thể tham gia một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của luật quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB.CAND năm 2008.
Hiến chương Liên hợp quốc.
Bài viết: “Cá nhân- chủ thể của Luật quốc tế ?” – Nguyễn Đức Lam.
Một số trang web:
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 0
NỘI DUNG 1
1.Khái niệm chủ thể của Luật quốc tế 1
2.Những quan điểm khác nhau về tính chủ thể của cá nhân trong CPQT 2
3.Thực tiễn áp dụng các quan điểm ở Việt Nam 6
3.1.Thực tiễn ở Việt Nam 6
3.2.Ví dụ liên hệ 6
KẾT LUẬN 7