Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Người đã từng nói : "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người.
Mặc dù Người đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người vẫn còn mãi mãi và thực tế đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc. Vận dụng tư tưởng của Người, Đảng ta đã và đang xây dựng một nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Để hiểu hơn tư tưởng của Người và sự vận dụng những tư tưởng ấy của Đảng trong xây dựng nhà nước, nhóm 3 đã nghiên cứu đề tài : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay”.
Đề tài bao gồm 3 nội dung chính :
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
1. Nhà nước của dân
2. Nhà nước do dân
3. Nhà nước vì dân
III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay
1. Những vấn đề thực tiễn
2. Vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay
19 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5412 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Người đã từng nói : "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người.
Mặc dù Người đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người vẫn còn mãi mãi và thực tế đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc. Vận dụng tư tưởng của Người, Đảng ta đã và đang xây dựng một nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Để hiểu hơn tư tưởng của Người và sự vận dụng những tư tưởng ấy của Đảng trong xây dựng nhà nước, nhóm 3 đã nghiên cứu đề tài : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay”.
Đề tài bao gồm 3 nội dung chính :
Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
Nhà nước của dân
Nhà nước do dân
Nhà nước vì dân
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay
Những vấn đề thực tiễn
Vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay
Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ :
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng nhân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác - Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là "dân là chủ". Khi xác định như thế, có lúc Hồ Chí Minh đem quan niệm "dân chủ" đối lập với quan niệm "quan chủ ". Đây là khái niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn gọn, rõ, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Qua đó Hồ Chí Minh còn cho rằng "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước do nhân dân làm chủ". "Chế độ ta là chế độ dân chủ .Tức là nhân dân làm chủ" "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ". Khi Hồ Chí Minh biểu đạt như thế chúng ta có thể hiểu rằng, dân là chủ, nghĩa là đề cập vị thế của dân ; còn dân làm chủ, nghĩa là đề cập năng lực trách nhiệm của dân.Hai điều này thể hiện vai trò ,vị trí, quyền và trách nhiệm của dân trong xã hội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép.
Vì sao dân có quyền hạn to lớn như vậy? Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước.
Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Làm thế nào để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình? Đây là vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác - Lênin, chưa có cuộc cách mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ.
Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân :
Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một Nhà nước mới ở Việt Nam là một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người sáng lập. Quan điểm đó xuyên suốt, có tính chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước cách mạng ở Việt Nam.
Hiểu một cách tổng quát nhất quan điểm “xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân”, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có những nội dung sau đây :
Nhà nước của dân
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập mọi quyền lực trong tay Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong các hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo : Hiến pháp năm 1946 và hiến pháp 1959.
Hiến pháp 1946 nêu rõ :
Mọi công việc quốc gia do dân phán quyết : Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhân dân có quyền làm chủ về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao của nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người công dân số 1,
đại biểu đầu tiên của Quốc hội Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát nhà nước :
Phải bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu được bầu ra... Tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân" Như vậy, bộ máy nhà nước phải do dân cử ra, tổ chức nên; hoạt động của Nhà nước phải lấy mục tiêu là phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. "Nhà nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, ngày càng tiến bộ về vật chất và tinh thần, làm cho trong xã hội không có người bóc lột người''.
Nhà nước được tổ chức trên cơ sở pháp luật; pháp luật cũng là nền tảng chủ yếu của mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, bảo vệ sự an toàn về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm cho con người. Những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật và trên cơ sở tôn trọng uy quyền của pháp luật; là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân, do nhân dân lập nên và được kiểm tra, giám sát bởi nhân dân.
Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân : Quyền làm chủ của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không tín nhiệm với sự tín nhiệm của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, muôn đảm bảo được tính chất nhân dân của Nhà nước, phải xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra. Cử tri và đại biểu cử tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do bản chất của cơ chế này quy định. Và, khi không hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn tư cách đại biểu.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân". Và cao hơn nữa là "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ". Những tư tưởng đó của Hồ Chí Minh thật trong sáng, rõ ràng, thể hiện sâu sắc bản chất dân chủ của bộ máy nhà nước mà Người nỗ lực xây dựng.
"Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do nhân dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"
Nhà nước phải có trách nhiệm tạo cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để nhân dân cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì đó là Nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
Nhà nước do dân
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng Nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam mới, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà nước. Người nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý là ở chỗ:
Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một kỳ họp Quốc hội
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946) vốn là một Quốc hội lập hiến. Song do hoàn cảnh cách mạng và kháng chiến nên Hiến pháp năm 1946 chưa được ban hành. Quốc hội đã giao cho Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội căn cứ vào các nguyên tắc đã định của Hiến pháp để thực thi việc lập pháp.
Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội đã giải quyết mọi vấn đề của toàn quốc, lập hiến và lập pháp, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.
Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hội đồng chính phủ (nay gọi là Chính phủ).
Hình trái: Nguyễn Văn Tố - Trưởng ban Thường trực Quốc hội khoá I (02/3/1946 - 8/11/1946)
Hình giữa: Bùi Bằng Ðoàn - Trưởng ban Thường trực Quốc hội khoá I (09/11/1946 - 19/9/1955)
Hình phải: Tôn Ðức Thắng - Trưởng ban Thường trực Quốc hội khoá I (20/09/1955 - 8/5/1960)
Quốc hội bầu Hội đồng Dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các uỷ viên. Hội đồng Dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách Dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng Dân tộc. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc được tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc.
Hội đồng chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của cả Nhà nước, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
Theo hiến pháp 1946 :
Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Quyền hạn của Chính phủ:
a) Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện.
b) Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện.
c) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.
d) Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần.
đ) Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn.
e) Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước.
g) Lập dự án ngân sách hàng năm.
Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của nhân dân (thông qua quốc hội do dân bầu ra).
Ðại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Ðại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó.Ðại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Ðại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao..
Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Do đó, phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý Nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết các vấn đề của đất nước. Người nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở dân hết”, “công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân”. Do vậy, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân...Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động.”
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi.
Người cho rằng: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt...
Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Chính vì vậy, Nhà nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là Nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành. Nhà nước tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo của Nhà nước thì việc gì cũng làm được.
Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất kỳ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào.
Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh : mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng phải cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm : “Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành”.
Bác Hồ dặn dò về chăm lo nhà ở cho người dân
Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Đối với chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho nhân dân.
Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”.
Người viết: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Quyền lực nhà nước có cội nguồn từ nhân dân, xuất phát từ nhân dân, nhân dân tạo lập nên bộ máy nhà nước và uỷ quyền cho nhà nước thay mình thực hiện quyền lực. Nhưng để nhân dân giao quyền mà không mất quyền, các cơ quan nhà nước được giao quyền mà không tiếm quyền dân và phải thực hiện tốt nhiệm vụ phục vụ nhân dân, phát huy quyền dân chủ của nhân dân.
Ngay từ đầu tư tưởng độc đáo, sáng tạo rất Hồ Chí Minh về một Chính phủ toàn dân, liêm khiết, biết làm việc đã được xác định: "Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ của toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái... một Chính phủ liêm khiết... biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất nước nhà" .Một Chính phủ coi trọng tính hiệu quả và thiết thực: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi".
Điều đó xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là... các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. .
Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, cán bộ làm công tác tư pháp có vai trò quan trọng. Họ chính là người trực tiếp thực thi luật pháp, đại diện cụ thể cho "cán cân công lý". Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ phải có phẩm chất đạo đức cần thiết: Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung tòa án mà còn phải gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng, trong sạch.
Đối với những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật hoặc xử lý không đúng, không nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Có cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà nước làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm đến lợi ích vật chất và quyền tự do dân chủ của nhân dân