Ở Việt Nam, ASXH là một trong những trụ cột cơ bản trong hệ thống các chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng. ASXH là nhân tố đảm bảo công bằng xã hội. Thực tiễn phát triển đã cho thấy ASXH có vai trò rất lớn trong việc khắc phục những hệ lụy của phân hóa xã hội, tăng cường gắn kết xã hội, sự đồng thuận và đảm bảo ổn định chính trị.
Như chúng ta đều biết, đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, chúng ta hướng mục tiêu trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa để có thể sánh vai với các nước phát triển trên thế giới. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế - xã hội thì chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nảy sinh từ mặt trái của quá trình phát triển kinh tế - xã hội như phân tầng xã hội, quá trình đô thị hóa không đồng bộ, môi trường bị xuống cấp, thất nghiệp, tệ nạn ma túy,người già neo đơn.
Dân số nước ta ngày càng già đi, quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh chóng kéo theo đó là số lượng người cao tuổi ngày càng tăng lên gây sực ép đối với nền kinh tê - xã hội.
22 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 7719 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của ASXH đối với người cao tuổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Lí do chọn đề tài.
Ở Việt Nam, ASXH là một trong những trụ cột cơ bản trong hệ thống các chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng. ASXH là nhân tố đảm bảo công bằng xã hội. Thực tiễn phát triển đã cho thấy ASXH có vai trò rất lớn trong việc khắc phục những hệ lụy của phân hóa xã hội, tăng cường gắn kết xã hội, sự đồng thuận và đảm bảo ổn định chính trị.
Như chúng ta đều biết, đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, chúng ta hướng mục tiêu trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa để có thể sánh vai với các nước phát triển trên thế giới. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế - xã hội thì chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nảy sinh từ mặt trái của quá trình phát triển kinh tế - xã hội như phân tầng xã hội, quá trình đô thị hóa không đồng bộ, môi trường bị xuống cấp, thất nghiệp, tệ nạn ma túy,người già neo đơn...
Dân số nước ta ngày càng già đi, quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh chóng kéo theo đó là số lượng người cao tuổi ngày càng tăng lên gây sực ép đối với nền kinh tê - xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng em đã chọn đề tài: "Vai trò của ASXH đối với người cao tuổi " để làm đề tài nghiên cứu, từ đó đưa ra thực trạng, nguyên nhân của công tác ASXH đối với người cao tuổi và từ đó đưa ra giải pháp phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người cao tuổi có cuộc sống ổn định và tốt đẹp hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu .
Nghiên cứu vai trò của ASXH đối với người cao tuổi để hiểu biết, xem xét,đánh giá, nhận xét, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác ASXH đối với cộng đồng nói chung và người cao tuổi nói riêng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phân tích cơ sở lí luận thực tiễn về ASXH và vai trò của ASXH đối với người cao tuổi.
- Nêu và phân tích thực trạng ASXH đối với người cao tuổi.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác ASXH đối với người lao động.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Do thời gian có hạn nên nhóm tập trung vào nghiên cứu vai trò của ASXH đối với người cao tuổi ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh phân tích.
6. Ý nghĩa, đóng góp của đề tài.
- Về lí luận: Vấn đề nghiên cứu giúp chúng ta hiểu biết về ASXH nói chung và tầm quan trọng của ASXH đối với các đối tượng trong xã hội và người cao tuổi nói riêng.
- Về thực tiễn: Vấn đề giúp chúng ta nhận thấy rõ thực trạng về công tác ASXH đói với người cao tuổi hiện nay, nguyên nhân do đâu để từ đó đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện hơn về công tác ASXH đối với người cao tuổi, đảm bảo cuộc sống cho người cao tuổi.
7. Kết cấu của đề tài.
Chương 1: Tổng quan về vai trò của an sinh xã hội đối với người cao tuổi
Chương 2: Thực trạng vai trò an sinh xã hội đối với người cao tuổi
Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trò của asxh đối với người cao tuổi
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1.Khái niệm An sinh xã hội
Theo tổ chức LĐQT (ILO) : ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong ; sự cung cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền trợ cấp giúp cho các gia đình đông con.
Hiện nay ASXH được hiểu là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình không may lâm vào hoàn cảnh yếu thế trong xã hội thông qua biện pháp cân đối lại tiền bạc và của cải xã hội.
Bản chất của ASXH là tạo ra mạng lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay khi gặp những rủi ro xã hội khác. Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội do đó vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội và nhân đạo sâu sắc.
1.1.2. Khái niệm về người cao tuổi
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi.
Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể
Theo WHO: Người cao tuổi phải từ 70 tuổi trở lên. Một số nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ lại quy định người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện về già của người dân ở các nước đó khác nhau. Những nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của người dân cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi già thường đến muộn hơn. Vì vậy, quy định về tuổi của các nước đó cũng khác nhau.
Về mặt pháp luật: Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2010 quy định: Người cao tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”.
Theo luật lao động: Người cao tuổi là những người từ 60 tuổi trở lên (với nam), từ 55 tuổi trở lên (với nữ)
Tuy nhiên quan niệm này có thể thay đổi theo thời gian khi điều kiện về kinh tế và tuổi thọ trung bình thay đổi.
Một số khái niệm có liên quan.
- Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
- Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiềm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe không vì lợi ích lợi nhuận do nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng đóng góp theo quy định của bảo hiểm y tế.
- Trợ cấp xã hội là sự giúp đỡ thêm của nhà nước dành cho các nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nhằm hướng tới bảo đảm các nhu cầu tối thiểu giúp họ phát huy được khả năng tự lo liệu cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ
1.4 Sự cần thiết của An sinh xã hội đối với người cao tuổi
Thứ nhất, Tỷ lệ người cao tuổi ngày càng gia tăng tạo nên gánh nặng cho quỹ hưu trí.
Khi dân số cao tuổi chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số cũng đồng nghĩa với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có xu hướng giảm đi và số người sau 60 tuổi sẽ tăng lên và sống lâu hơn. Như vậy, số người làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ có xu hướng giảm đi và số người thụ hưởng sẽ có xu hướng gia tăng. Điều này ở một khía cạnh nào cũng sẽ tạo ra “gánh nặng” cho quỹ hưu trí quốc gia khi phải chi trả lương hưu nhiều hơn và dài thời gian hơn, trong khi đó số người đóng góp có xu hướng giảm đi tương đối so với số người thụ hưởng (do hệ quả của mức sinh thấp.
Thứ hai, Chi phí y tế dành cho người cao tuổi cao
Theo quy luật chung, tuổi càng cao, sức khỏe càng giảm. Dù muốn hay không, con người vẫn đối mặt với tình trạng bệnh tật, sức khỏe của mình khi tuổi ngày càng cao trong vòng đời Sinh- Lão- Bệnh- Tử. Khi đã ngoài 60 tuổi, quá trình đồng hóa giảm đi, quá trình dị hóa tăng lên, quá trình lão hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, đồng thời phát sinh những loại bệnh tật đặc trưng của tuổi già. Mặc dù, nhờ những thành tựu trong phát triển kinh tế cũng như trong tiến bộ của y học, nhưng cơ cấu bệnh tật của dân số nước ta nói chung và của người cao tuổi nói riêng đang chuyển dần từ mô hình bệnh tật của những nước đang phát triển sang của nước phát triển. Cơ cấu bệnh tật hiện nay của nước ta chuyển từ không nhiễm trùng, không lây nhiễm sang các bệnh chủ yếu như cao huyết áp, đột quỵ, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa (Giang Thanh Long, 2011). Như vậy, cùng với tuổi tác, cơ cấu chi tiêu của người cao tuổi đã thay đổi nhiều, chi phí cho khám, chữa bệnh có xu hướng tăng lên. Người già lại hay bị những loại bệnh đòi hỏi chi phí y tế cao như huyết áp, đột quỵ, tim mạchTheo PGS-TS Phạm Thắng- Viện Lão khoa quốc gia, nhu cầu chăm sóc người cao tuổi (y tế, xã hội, tài chính) sẽ là một thách thức lớn đối với xã hội và gia đình. Người cao tuổi có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn, trong khi chi phí cho đối tượng này cũng cao gấp 7-8 lần so với trẻ em. Chi phí này hoặc là gia đình phải tự chi hoặc là hệ thống BHYT chi trả (đối với những người tham gia BHXH hoặc đối tượng thụ hưởng BHXH, BHYT).
Thứ ba, Tỷ lệ hưởng BHXH hưu trí của những người cao tuổi ở khu vực nông thôn còn thấp.
Đối với một nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam, cho đến nay, về cơ bản nước ta vẫn là nước nông nghiệp với trên 70% số dân và cũng khoảng 70% số lao động đang sống ở và lao động ở nông thôn, trong đó khoảng 50% làm các nghề nông nghiệp. Trong khi đó số lao động tham gia hệ thống BHXH chỉ chiếm khoảng 10% -20% tổng lực lượng lao động và chủ yếu ở khu vực thành thị. Như vậy, đa số người lao động nông thôn khi trở thành người cao tuổi (60 tuổi trở lên) sẽ không được hưởng lương hưu từ hệ thống BHXH. Để tiếp tục cuộc sống, những người cao tuổi này buộc phải tự lao động kiếm sống hoặc nhờ sự hỗ trợ của con cháu, hoặc nhờ sự trợ giúp của cộng đồng.
Thứ tư, nước ta trải qua các cuộc chiến tranh kéo dài với rất nhiều thế hệ người lính phải sống và chiến đấu ở những vùng ác liệt, nhiều nơi bị nhiễm chất độc da cam Đến nay, đa phần họ đã thuộc nhóm người cao tuổi.
Ngoài những loại bệnh của người già, không ít trong số họ mắc những bệnh đặc trưng của chiến tranh, trong khi đó, đa phần trong số họ sau chiến tranh về quê nhà sinh sống, họ không có lương hưu. Điều này, đòi hỏi cần có những chính sách ASXH đặc thù cho nhóm người này.
Thứ năm,Người lao động ở Việt Nam “ già khi chưa giàu”
Cũng là đặc thù của nền kinh tế Việt Nam khi thu nhập của người lao động thấp, thu nhập chỉ đủ trang trải (thậm chí không đủ) cho những chi tiêu trước mắt, không có và không thể có cho tích tũy trong tương lai. Điều này là nguy cơ tiềm năng khi người lao động không làm việc được nữa, họ sẽ không có khoản tích lũy để chi dùng khi trở thành người cao tuổi. Một số nhà phân tích đã nêu, người lao động Việt Nam “già khi chưa giàu”. Đối với một người “già khi chưa giàu” sẽ tạo áp lực cho con cái, nhưng đối với một xã hội “già hóa” và xã hội “già” thì áp lực này sẽ chuyển sang hệ thống ASXH.
Qua những phân tích trên cho thấy giữa già hóa dân số, dân số già và ASXH có mối quan hệ “nhân- quả”. Điều này cho thấy, một mặt phải điều chỉnh chính sách dân số sao cho quá trình già hóa dân số diễn ra chậm hơn và quá trình chuyển từ dân số già hóa sang dân số già diễn ra với thời gian lâu hơn; mặt khác, cần phải có chiến lược ASXH ứng phó phù hợp. Chính sách ASXH đối với người cao tuổi không nên chung cho mọi nhóm bởi người cao tuổi không phải là nhóm dân số đồng nhất. Người cao tuổi cũng có người giàu, người nghèo; có người khỏe mạnh và người ốm yếu; có người được sống cùng con cháu, nhưng có người chỉ sống một mình Vì vậy, nên phân nhóm đối tượng để có chính sách ASXH ứng phó phù hợp. Phải xây dựng và phát triển các dịch vụ xã hội đối với người cao tuổi, đặc biệt là đối với người cao tuổi ở nông thôn. BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân là hướng đi và là giải pháp tích cực, chủ động trong chính sách ASXH của mỗi quốc gia. Sinh- Lão– Bệnh– Tử là quy luật của cuộc sống loài người. Ai sinh ra rồi cũng phải già và chết. Do vậy, ASXH đối với người cao tuổi hiện tại cũng chính là đảm bảo ASXH tương lai cho người lao động hiện tại.
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
2.1 Thực trạng An sinh xã hội đối với người cao tuổi trên Thế giới.
Theo thống kê, thế giới hiện có 497 triệu, chiếm gần 2/3 NCT sống ở các nước nghèo và khoảng hơn 180 triệu người sống trong cảnh nghèo khó. Theo dự báo, đến năm 2045, số người trên 60 tuổi trên thế giới sẽ nhiều hơn số trẻ em dưới 14 tuổi. Ở các nước trung bình và kém phát triển, hơn 50% người trên 60 tuổi vẫn làm việc, chủ yếu ở các thành phần phi chính thức. Thế giới cũng đang chứng kiến ¾ người cao tuổi sống trong các khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai và biến đổi khí hậu; 2/3 số NCT bị bệnh kinh niên sống ở các nước tủng binh và kém phát triển.
Ở nhiều nước Châu Phi, NCT là người chắm sóc chủ yếu đối với 40% người bị HIV/AIDS hoặc trẻ em bị mồ côi do AIDS. Trong những thế kỷ qua, sự gia tăng người cao tuổi trong tổng số dân số toàn cầu là vấn đề đáng quan tâm. Trong thế kỷ này, nó đặt ra những thách thức lớn nhưng cũng không ít cơ hội. Hàng triệu người cao tuổi ở các nước phát triển trung bình và thu nhập thấp đang đối mặt với những vấn đề về nghèo đói và bệnh tật.
Tuy vậy, các chính sách phát triển quốc tế và các hoạt động thường không bao gồm người cao tuổi. Chương trình phát triển Thiên niên kỷ không trực tiếp liên quan đến tuổi già. Trong khi cam kết giảm tỷ lệ người cực nghèo xuống 50% vào năm 2015, người cao tuổi hầu như dùng lại ở nửa còn lại của người nghèo. Khi nói về chăm sóc sức khoẻ, người cao tuổi vừa là người tự chăm sóc mình, lại vừa là những người chăm sóc người khác. Sự gia tăng “người cao tuổi già” là thách thức lớn, đặc biệt đối với gia đình và cộng đồng. Đồng thời, nhiều người cao tuổi phải chăm sóc cháu do bố mẹ các em ra thành thị làm việc kiếm tiền hoăc bệnh tật-chết do HIV/AIDS hay các bệnh liên quan.
Ở các nước có thu nhập trung bình và thấp, hàng triệu người cao tuổi sống dưới mức nghèo đói, phần lớn họ không có nghỉ hưu. Họ không có cả lương hưu tối thiểu, phải làm việc để đảm bảo cuộc sống và thường làm những công việc không an toàn, được trả công thấp đến khi họ không thể làm việc được nữa hoặc bệnh tật, ốm đau. Những người không làm việc được phải sống trong cảnh bần cùng. Khủng hoảng kinh tế thế giới, dẫn đến sự tăng giá cả sinh hoạt, thức ăn, giao thông và nhà ởlàm tồi tệ thêm cuộc sống của họ. Các hộ gia đình nghèo ảnh hưởng nhiều nhất đến người già và trẻ em trong gia đình. Những người cao tuổi trong gia đình phải chăm sóc trẻ em mà cha mẹ các em di cư ra thành thị kiếm tiền. Những người cao tuổi ở các nước có thu nhập trung bình và thấp không có cơ hội cải thiện cuộc sống. Vai trò của họ đối với gia đình và cộng đồng thường không được biết đến và đánh giá đúng mức. Đặc biệt, đối với những người sống ở các địa phương nghèo hoặc bị tác động xấu của môi trường thường có nguy cơ cao chịu ảnh hưởng của các cuộc xung đột hoặc các nguyên nhân khác về chính trị, môi trường không ổn định tạo ra sự thiếu an toàn cho họ.
2.2 Vai trò của an sinh xã hội đối với người cao tuổi ở Việt Nam.
Thực trạng.
Hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam đã được mở rộng trong những năm vừa qua. Cho đến nay đã có nhiều chính sách, chương trình dành cho người cao tuổi theo các nhóm đối tượng khác nhau, nhưng tập trung lại thì có các nhóm chính sách về bảo hiểm xã hội (cụ thể là hưu trí và tử tuất), bảo hiểm y tế và trợ cấp xã hội.
Về hệ thống BHXH (hưu trí và tử tuất)
Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn “già hóa dân số” với tỷ lệ người cao tuổi (NCT) từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% dân số. Trong bối cảnh đó, tuổi thọ của người dân được nâng cao, tiềm lực kinh tế của đất nước được cải thiện, chế độ trợ giúp thường xuyên cho NCT cũng được điều chỉnh, bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, hướng đến mục tiêu bù đắp để đảm bảo mức sống tối thiểu cho đối tượng. Theo dự báo dân số của Tổng cục Thống kê (GSO) cho thấy dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ chưa từng có. Số người cao tuổi sẽ tăng gấp ba vào năm 2050 và như vậy sẽ tăng từ 9% đến 26% dân số. Với mức lương hưu hiện nay là rất thấp, phần lớn người cao tuổi đều sống dựa vào người thân trong gia đình.
Ngay từ những năm 1960, chính phủ đã xây dựng hệ thống bảo hiểm BHXH cho người lao động, đặc biệt là bảo hiểm hưu trí, để đảm bảo cuộc sống của họ khi về già yếu, hết tuổi lao động. Sau hơn 40 năm, hệ thống hưu trí đã có sự thay đổi đáng kể để phù hợp với sự biến đổi kinh tế, xã hội, đặc biệt là sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp của chính phủ sang cơ chế đóng góp của người lao động. Đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành cho các chế độ BHXH nhưng văn bản cao nhất là Luật Bảo hiểm Xã hội đã được Quốc hội thông qua ngày 26/9/2006 và chính thức có hiệu lực từ 1/1/2007. Sau khi có sự ra đời của Luật BHXH, hàng loạt các văn bản khác cũng được ban hành để triển khai thực hiện Luật, nhằm đảm bảo hiệu quả thực thi các chế độ BHXH cho các đối tượng, trong đó có người cao tuổi, như Nghị định 68/2007/ NĐ-CP ngày 19/4/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một điều Luật BHXH; Nghị định số 184/2007/ NĐ-CP ngày 17/12/2007 của Chính phủ về việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc; Nghị định số 83/2008/NĐ-CP ngày 31/07/2008 của Chính phủ về việc điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH đối với người lao động thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định Tất cả những chính sách đó nhằm khuyến khích sự tham gia của người lao động đối với hệ thống BHXH và đảm bảo đời sống cho các đối tượng thụ hưởng, trong đó có người cao tuổi.
Mặt khác, trong xu thế phát triển chung, số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội bắt buộc tiếp tục tăng nhanh. Điều này có nghĩa là số NCT có lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng cũng tăng nhanh trong những năm tới đây (số người nghỉ hưởng chế độ hưu trí từ nguồn quỹ bảo hiểm xã hội tăng từ 596,4 ngàn người năm 2006 lên trên 1 triệu người năm 2011). Thực tế này góp phần làm giảm gánh nặng ngân sách chi thực hiện an sinh xã hội cho NCT và tạo điều kiện để mở rộng đối tượng là NCT được hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng với mức chuẩn trợ cấp ngày càng đảm bảo hơn cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của họ.
Trong các chế độ BHXH thì chế độ hưu trí là chế độ an sinh xã hội dài hạn, có tác động mạnh nhất đến hệ thống BHXH về mặt tài chính. Theo quy định hiện nay, nam giới từ 60 tuổi trở lên và nữ giới từ 55 tuổi trở lên có thể nhận lương hưu khi thỏa mãn một số điều kiện về thời gian đóng góp. Hệ thống hưu trí của Việt Nam hiện nay vận hành theo cơ chế thực thanh thực chi với mức hưởng được xác định trước (PAYG DB). Tuy nhiên, với việc thiết kế và thực hiện như hiện nay, hệ thống hưu trí Việt Nam sẽ không đáp ứng được các tiêu chí về bền vững tài chính và công bằng trong điều kiện dân số già hóa, thậm chí người cao tuổi có thể không được đảm bảo an ninh thu nhập từ hệ thống hưu trí này.
Về hệ thống Bảo hiểm y tế.
Văn bản pháp lý đầu tiên quy định về BHYT của Việt Nam là Nghị định 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban kèm theo Điều lệ BHYT và sau đó Nghị định này được thay bằng Nghị định 58/1998/NĐ-CP nhằm điều chỉnh một số quy định cho phù hợp với những thay đổi kinh tế-xã hội. Trong quá trình đó, Chính phủ cũng ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật cụ thể khác có liên quan đến chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thông qua BHYT như Nghị định số 95/CP ngày 27/8/1994 với quy định người già cô đơn thuộc diện trợ cấp xã hội được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế và không phải trả tiền khi khám chữa bệnh tại các cơ sở công lập, hoặc chỉ trả một phần viện phí do cơ quan bảo hiểm y tế trả cho cơ sở khám chữa bệnh; Pháp lệnh Người cao tuổi ngày 28/4/2000 quy định rõ việc khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa và không có nguồn thu nhập; Nghị định 30/2002/NĐ- CP ngày 26/3/2002 quy định người cao tuổi trên 100 tuổi được cấp thẻ BHYT mệnh giá 50.000 đồng hoặc được khám chữa bệnh miễn phí theo phương pháp thực thanh thực chi; Quyết định 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về khám chữa bệnh cho người nghèo là đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội theo Nghị định 07/2000/NĐ-CP, trong đó có người cao tuổi; Khoản 9, Điều 3 của Nghị định 63/2005/ NĐ-CP ngày 16/5/2005 quy định rõ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa, thuộc hộ nghèo là một trong 14 nhóm đối tượng tham gia BHYT bắt buộc Luật Bảo hiểm Y tế - là văn bản pháp luật cao nhất về bảo hiểm y tế - được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14/11/2008 có quy định một số điều liên quan đến các đối tượng ưu tiên BHYT, trong đó có người cao tuổi.
Về hệ thống trợ cấp xã hội.
Trong những năm qua, tuổi để hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đối với NCT từng bước được điều chỉnh. Nếu năm 2007 thực hiện theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP, quy định người t