Đề tài Vai trò của dịch vụ nông thôn, thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn

Để phát triển nông thôn một cách toàn diện chúng ta không chỉ tập trung vào những hoạt động sản xuất chính (như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và khai thác mỏ và đá); các hoạt động sản xuất thứ (như các ngành chế biến chế tạo); mà chúng ta cần phải quan tâm đến những hoạt động thứ ba đó là ngành dịch vụ. Dịch vụ nông thôn mà chúng ta quan tâm ở đây bao gồm các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, các hoạt động cung ứng, phục vụ cho sản xuất; dịch vụ xã hội nông thôn là các điều kiện về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa, cung cấp nước sạch và vệ sinh. Cùng với việc nâng cao thu nhập, đẩy mạnh dịch vụ sản xuất, việc đẩy mạnh các dịch vụ xã hội nông thôn là điều kiện từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, giảm dần sự cách biệt giữa mức sống nông thôn và thành thị. Do đó, phát triển dịch vụ nông thôn trở thành một yêu cầu bức thiết góp phần phát triển nông thôn toàn diện và tạo ra cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ. Những năm gần đây cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nhiều loại hình dịch vụ mới mang đậm nét của nền kinh tế thị trường đã hình thành, phát triển trong sản xuất và đời sống nông thôn như các hoạt động dịch vụ tài chính, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, du lịch, kinh doanh bất động sản, tư vấn tin học, pháp lý

doc35 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6124 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của dịch vụ nông thôn, thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU. Để phát triển nông thôn một cách toàn diện chúng ta không chỉ tập trung vào những hoạt động sản xuất chính (như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và khai thác mỏ và đá); các hoạt động sản xuất thứ (như các ngành chế biến chế tạo); mà chúng ta cần phải quan tâm đến những hoạt động thứ ba đó là ngành dịch vụ. Dịch vụ nông thôn mà chúng ta quan tâm ở đây bao gồm các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, các hoạt động cung ứng, phục vụ cho sản xuất; dịch vụ xã hội nông thôn là các điều kiện về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa, cung cấp nước sạch và vệ sinh. Cùng với việc nâng cao thu nhập, đẩy mạnh dịch vụ sản xuất, việc đẩy mạnh các dịch vụ xã hội nông thôn là điều kiện từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, giảm dần sự cách biệt giữa mức sống nông thôn và thành thị. Do đó, phát triển dịch vụ nông thôn trở thành một yêu cầu bức thiết góp phần phát triển nông thôn toàn diện và tạo ra cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ. Những năm gần đây cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nhiều loại hình dịch vụ mới mang đậm nét của nền kinh tế thị trường đã hình thành, phát triển trong sản xuất và đời sống nông thôn như các hoạt động dịch vụ tài chính, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, du lịch, kinh doanh bất động sản, tư vấn tin học, pháp lý… Vì tính cấp thiết đó của dịch vụ nông thôn nên chúng ta cùng đi vào tìm hiểu: “vai trò của dịch vụ nông thôn, thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn”, từ đó đưa ra giải pháp phát triển dịch vụ như thế nào để đạt hiệu quả? PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN. Thu thập, phân tích, xử lý và tổng hợp số liệu. Phân tích định tính. NỘI DUNG. Vai trò của dịch vụ nông thôn. Theo Philip Kotler dịch vụ được định nghĩa như sau: Dịch vụ là bất kì hoạt động, hoặc lợi ích gì mà một bên có thể công hiến cho bên kia, thực chất là có tính chất vô hình và không dẫn đến việc sở hữu bất kì món gì. Việc sản xuất ra nó có thể không bị ràng buộc với một sản phẩm vật chất Dịch vụ được coi là ngành kinh tế thứ ba trong nền kinh tế quốc dân, vì rằng trong phát triển sản xuất và đời sống của nhân loại thì nông nghiệp là ngành kinh tế đầu tiên tạo ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người nó được coi là ngành kinh tế thứ nhất. Kể đến là ngành công nghiệp ( bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp ) là ngành đã tạo ra công cụ sản xuất và vật phẩm tiêu dung được coi là ngành kinh tế thứ hai. Cuối cùng là ngành kinh tế ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của hai ngành kinh tế trên về những điều kiện sản xuất và cung cấp cho con người những yêu cầu dịch vụ cho cuộc sống được gọi là ngành kinh tế thứ ba. Tuy ra đời sau nhưng ngành dịch vụ đã có những xu hướng phát triển mạnh và chiếm dần tỉ trong cao trong nề kinh tế. Sản phẩm của ngành dịch vụ cung cấp hầu hết là sản phẩm phi vật chất, sản xuất và đời sống ngày càng cao thì yêu cầu cung cấp dịch vụ ngày càng tăng và đa dạng hơn. Hiên nay ở nhiều nước phát triển, ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng tới 70% trong cơ cấu GDP của đất nước. Những năm gần đây ở Việt Nam ngánh dịch vụ chiếm 38-39% trong cơ cấu GDP của cả nước. Ngành dịch vụ còn tạo ra cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ. Vì một khi dịch vụ phát triển, nhu cầu con người được đáp ứng, sản xuất công nghiệp, nông lâm, ngư nghiệp…có cơ sở để tiêu thụ, nhiều khi phế liệu của các mặt hàng sản xuất chính sẽ được ứng dụng làm các sản phẩm mỹ nghệ, các mặt hàng đồ chơi, đồ trang trí …lúc đó nhờ dịch vụ mà các hoạt động sản xuất chính cũng như các hoạt động sản xuất thứ được thúc đẩy, mở rộng sản xuất hơn nữa, áp dụng nhiều tiến bộ để đáp ứng được đúng và đủ nhu cầu của xã hội. chính vì vậy mà cơ câu kinh tế ngày càng tiến bộ. Cũng có thể xem nó như những hoạt động trợ giúp nhằm hoàn thiện và khuếch trương hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2 - Thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta. 2.1 Các ngành dịch vụ nông nghiệp ở nước ta Để phát triển dịch vụ ở nông thôn, trước hết chúng ta cần biết được có những ngành dịch vụ về nông nghiệp như thế nào? Dịch vụ trong nông nghiệp gồm: - Dịch vụ thủy lợi - Dịch vụ điện - Dịch vụ giống cây trồng và vật nuôi - Dịch vụ làm đất - Dịch vụ vật tư nông nghiệp -Dịch vụ bảo vệ thực vật -Dịch vụ bảo vệ ruộng đồng - Dịch vụ thú y - Dịch vụ chế biến nông sản - Dịch vụ tiêu thụ nông sản -Dich vụ khuyến nông Hợp tác xã nông nghiệp đơn vị kinh tế tập thể cơ sở có chức năng hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình xã viên và kinh doanh trong mọi lĩnh vực sản xuất chế biến, tiêu thụ nông sản… sau những năm chuyển đổi với các mức độ khác nhau đã tổ chức một số hoạt động dịch vụ chủ yếu. Tuy nhiên các loại hoạt động dịch vụ trong hợp tác xã trong cả nước rất khác nhau. Số lớn các hợp tác xã chỉ hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và gần như bắt buộc vỡi những công trình có giá trị lớn như thủy lợi, điên. Những dịch vụ mà thị trường cạnh tranh như vật tư nông nghiệp, thương mại tiêu thụ nông sản thì thấp hơn rất nhiều, thậm chí nhiều địa phương các hợp tác xã không đủ điều kiên để tổ chức hoạt động dịch vụ này. Phần lớn các hoạt động dịch vụ trong hợp tác xã nông nghiệp mang tính phục vụ hạch toán kinh doanh còn ít. Kết quả điều tra của bộ Nông nghiệp và PTNT năm 2003 cho ở bảng sau: Tổng kết mức độ tham gia hoạt động dịch vụ nông nghiệp trong hợp tác xã nông nghiệp. Stt  Tên hoạt động dịch vụ  Tỉ lệ % hợp tác xã trong nông nghiệp     Cả nước  10 tỉnh điều tra  Hợp tác xã chuyển đổi  Hợp tác xã mới   1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12  - Dịch vụ thủy lợi -Dịch vụ điện - Dịch vụ giống cây trồng - Dịch vụ làm đất - Dịch vụ vật tư nông nghiệp -Dịch vụ bảo vệ thực vật -Dịch vụ thú y - Dịch vụ tín dụng -Dịch vụ chế biến -Dịch vụ tiêu thụ -Dịch vụ bảo vệ ruồng đồng - Định hướng khuyến nông  94.90 52.02 41.30 36.00 14.40 61.20 37.70 - 0.40 10.03 95.20 100.00  92.70 47.52 45.18 39.22 25.47 66.40 21.67 10.26 2.02 12.60 93.60 100.00  100.00 66.70 46.60 40.00 16.70 56.60 20.00 20.00 6.60 13.20 100.00 100.00  100.00 25.00 50.00 25.00 - 50.00 - 25.00 - - 100.00 100.00   (nguồn của bộ NN & PTNT) Cơ sở vật chất kỹ thuật là điều kiện quan trọng cho mức độ và chất lượng trong sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp, nhất là trong điều kiện của công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Những vấn đề đang đặt ra là phải tiếp tục hoàn thiện nâng cao bổ sung và tổ chức lại các hệ thống dịch vụ cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp cũng như tổ chức công tác nghiên cứu khoa học cho dịch vụ sản xuất nông nghiệp cả về phương diện lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế. Ví dụ về một số tổ chức dịch vụ ở nông thôn: Dịch vụ HTX nông nghiệp: Các HTX dịch vụ nông nghiệp đã phát huy vai trò là tổ chức kinh tế của các hộ nông dân, xác định rõ định hướng hoạt động, tổ chức thêm nhiều ngành nghề mới, sản xuất kinh doanh ngày thêm hiệu quả. Ngành nghề kinh doanh chủ yếu là làm dịch vụ thủy lợi, phân bón, bảo vệ thực vật, thú y, làm đất, chăn nuôi gia súc… Các HTX nông nghiệp đã thể hiện vai trò trong việc hướng dẫn các hộ thành viên chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Việc liên doanh, liên kết giữa các HTX với nhau và giữa HTX với các doanh nghiệp bước đầu có hiệu quả, góp phần tạo điều kiện cho các HTX nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh và nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo lợi ích thiết thực của HTX và xã viên. Các HTX đã thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, hỗ trợ cho nông dân và xã viên tổ chức sản xuất, góp phần gia tăng sản lượng nông sản hàng hóa; huy động được các nguồn lực thúc đẩy ngành nghề phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho xã viên và người lao động, đồng thời góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết nhiều vấn đề xã hội… Nếu như năm 2010 HTX dịch vụ nông nghiệp Đan Phượng (xã Đan Phượng- huyện Đan Phượng- Hà Nội) đạt doanh thu trên 6 tỷ đồng, tăng 31,83% so với năm 2009, thì tính đến hết tháng 6/2011, doanh thu của HTX đã đạt gần 4 tỷ đồng.  Có được thành quả ấy, là nhờ ban lãnh đạo HTX luôn năng động, mở rộng ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho xã viên và người dân sống trên địa bàn. Là HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, những năm qua, tập thể cán bộ xã viên HTX luôn có nhiều cố gắng đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong sản xuất, kinh doanh, phục vụ trên 3000 xã viên và người dân trên địa bàn xã. HTX dịch vụ nông nghiệp Đan Phượng được chuyển đổi theo Luật HTX từ năm 1997. Những năm qua, dù gặp nhiều khó khăn, nhưng HTX luôn hoàn thành tốt mọi kế hoạch sản xuất kinh doanh. Các khâu dịch vụ, hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX từng bước được đổi mới và quản lý chặt chẽ theo quy định, đúng mục đích nên đạt hiệu quả cao. Năm 2010, nguồn vốn của HTX tăng 10,08%, doanh thu tăng 31,83%, lãi tăng 4% so với năm 2009.  Để tăng thêm doanh thu, tạo thêm việc làm cho xã viên và người lao động, ngoài hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, HTX còn tham gia một số hoạt động dịch vụ như vệ sinh môi trường, kinh doanh điện dân sinh, giống vật tư nông nghiệp... Trong lĩnh vực dịch vụ điện, HTX là một trong những đơn vị được ngành điện chọn tham gia dự án RE.II (năng lượng nông thôn 2), được vay vốn của Ngân hàng thế giới (WB) để đầu tư, cải tạo lưới điện hạ áp nông thôn. Nhờ đó năm 2010, toàn xã đã thay trên 90% dây bọc PVC đủ tiết diện đến từng ngõ xóm và 98% số thùng công tơ compoxit cùng các thiết bị khác đến công tơ hộ bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định, nên tổn thất điện năng đã giảm xuống còn 10%. Xã có 5 trạm điện với tổng công suất 1.420 KVA, hiện HTX đang đầu tư sửa chữa, bổ sung các thiết bị với giá trị hơn 42 triệu đồng. Ngoài việc phục vụ điện cho người dân trên địa bàn xã, HTX còn cung cấp cho các địa bàn lân cận như Phượng Trì, thị trấn Phùng... Trao đổi với phóng viên báo Kinh tế Hợp tác Việt Nam, Chủ nhiệm HTX dịch vụ nông nghiệp Đan Phượng- ông Nguyễn Văn Thông- cho biết: Trước đây HTX gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp, đời sống các xã viên thiếu thốn. Từ ngày HTX mở rộng dịch vụ đa ngành nghề, tạo việc làm cho nhiều người, đời sống các xã viên được cải thiện hơn. Không chỉ tổ chức sản xuất, kinh doanh tốt, mang lại thu nhập năm sau cao hơn năm trước cho xã viên, HTX còn quan tâm đến công tác bảo đảm vệ sinh an toàn lao động và tích cực tham gia các hoạt động xã hội của địa phương. Năm 2011 này, HTX đang thực hiện dự án "Đầu tư sản xuất rau an toàn" với tổng kinh phí trên 13 tỷ đồng, trên tổng diện tích 5ha. Dự án sẽ tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tăng thu nhập cho người lao động, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, đáp ứng nhu cầu rau an toàn cho người tiêu dùng, tiến tới xây dựng thương hiệu "Rau an toàn xã Đan Phượng". Với đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo Luật HTX năm 2003, hy vọng trong thời gian tới, HTX dịch vụ nông nghiệp Đan Phượng sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao, tạo được nhiều việc làm, tăng thu nhập, bảo đảm đời sống cho các xã viên cũng như người lao động. Thành lập năm 1989, Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ - Nông nghiệp Bình Thành (huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) luôn đề ra nhiệm vụ trọng tâm là hỗ trợ cho các hộ xã viên làm kinh tế. Do vậy, trải qua các thời kỳ, Ban quản trị HTX luôn đề ra những chiến lược phát triển mà ở đó, lợi ích của người xã viên được đặt lên hàng đầu.  Trong mọi hoạt động, HTX Bình Thành luôn tuân thủ và thực hiện đúng các nguyên tắc của HTX trong việc kiểm tra, kiểm soát, công khai minh bạch về tài chính; chấp hành đúng điều lệ, nội quy mà Đại hội xã viên đã thống nhất. Bởi vậy, trong mọi hoạt động của HTX, Ban quản trị luôn được các xã viên đồng tình ủng hộ, chia sẻ nhất là trong công tác thu phí tham gia dịch vụ, thu hồi nợ tín dụng nội bộ… Đổi mới trang thiết bị, công nghệ: Nhờ vậy, các xã viên của HTX Bình Thành đều tích cực xây dựng và đóng góp vào nguồn vốn tích lũy để đổi mới trang thiết bị và ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Hàng năm, HTX đã mạnh dạn đầu tư hơn 1,2 tỷ đồng từ nguồn vốn này. Hiện có 5 máy bơm được thay mới với công suất HP giúp cải tiến dàn bơm tưới phục vụ cho 37 trạm bơm liên hoàn, đảm bảo tưới tiêu cho 1.190ha sản xuất lúa 3 vụ, làm giảm được hơn 10% chi phí hàng năm cho xã viên. Cải tạo và nâng cấp 40km đê bao bờ vùng để chống lũ và tạo ra hệ thống đường giao thông nông thôn phục vụ việc đi lại sản xuất, sinh hoạt. Ngoài ra, HTX mua 34 máy biến áp mới với tổng công suất 13.035 KVA và thay mới 5km đường dây tải điện trung và hạ thế, giúp cải tiến toàn bộ thiết bị vận hành trạm bơm, đảm bảo an toàn sử dụng. Một số thiết bị được mua sắm mới như máy đào tự hành nhằm chủ động phục vụ nạo vét kênh mương; máy cắt lúa đảm bảo khâu thu hoạch đồng bộ… HTX đưa vào áp dụng mô hình trồng thí điểm giống lúa mới có năng suất và chất lượng cao thông qua việc tổ chức 45 lớp tập huấn chuyển giao công nghệ sản xuất giống cho nông hộ. Đã có hơn 600 xã viên tham dự và có đến hơn 95% hộ xã viên trong HTX đã biết tự sản xuất giống chất lượng cao, góp phần nâng cao năng suất lúa lên từ 200 - 500kg/ha, giảm giá thành đầu vào từ 600.000 - 800.000 đồng/ha và tăng giá lúa lên từ 300 - 400 đồng/kg. Phương châm hoạt động hàng đầu của HTX Bình Thành hiện nay là vừa kinh doanh vừa hỗ trợ xã viên phát triển kinh tế hộ. Trong đó, tập trung cải tiến các dịch vụ hỗ trợ nhằm cung cấp cho xã viên các dịch vụ nông nghiệp có chất lượng tốt nhất với chi phí hợp lý, góp phần nâng cao giá trị thương phẩm của nông sản hàng hóa đủ sức cạnh tranh sản phẩm cùng loại trên thị trường, giảm thiểu lao động thủ công, tăng năng suất lao động. HTX Bình Thành hiện đang quản lý và thực hiện 12 dịch vụ, thu về lợi nhuận bình quân hàng năm là từ 10 - 12% với các dịch vụ phục vụ nông nghiệp như: tưới tiêu, cung ứng phân bón, tín dụng nội bộ. Các hộ xã viên khi tham gia những chương trình này được tiếp cận kỹ thuật mới trong sản xuất, tiết giảm được giá thành, tăng năng suất, thu nhập và tận dụng được thời gian nhàn rỗi trong lao động nông nghiệp. Hiện nay, trên 90% hộ xã viên của HTX Bình Thành biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, thực hiện tốt chương trình khuyến nông 4 đúng, năng suất bình quân đạt từ 16 - 18 tấn/ha/năm, trong đó lúa chất lượng cao đạt 99% trong toàn diện tích của HTX. Mục tiêu hoạt động của HTX không chỉ góp phần làm chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý mà còn phấn đấu tăng thêm thu nhập cho hộ xã viên, từng bước góp phần hạ tỷ lệ hộ nghèo ở địa phương đến mức thấp nhất (năm 2006 - 2007 là 3%, giảm còn dưới 1% vào cuối năm 2008). Do vậy, HTX Bình Thành luôn chú trọng đến công tác giải quyết việc làm cho lực lượng nông nhàn thông qua các dịch vụ hỗ trợ và phát triển làng nghề truyền thống, tổ chức đội trồng hoa kiểng. Từ một số hộ gia đình gia công tự phát theo thời vụ, thu nhập bấp bênh, đến nay đã hình thành một làng nghề đúng nghĩa: hơn 140 hộ tham gia phục hồi nghề truyền thống với hơn 400 lao động có công ăn việc làm ổn định. Bài học cho sự phát triển Trong công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nhằm phấn đấu giảm tỷ trọng nông nghiệp, HTX đầu tư thành lập một trại giống để làm nơi thực nghiệm áp dụng kiến thức khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi trước khi chuyển giao con giống cho xã viên. Tính chung trong 3 năm qua đã có hơn 200 hộ nhận con giống từ HTX cung cấp với mức thu nhập bình quân từ 2.000.000 - 4.000.000 đồng. Trong công tác giữ gìn vệ sinh môi trường, HTX đẩy mạnh công tác phòng trừ sâu bệnh trong trồng trọt và xây dựng hầm ủ phân Bioga kiên cố trong chăn nuôi, góp phần giải quyết tốt môi trường và tận dụng được khí đốt góp phần làm tăng kinh tế thu nhập gia đình... Trải qua gần 20 năm xây dựng và phát triển, HTX Bình Thành đã từng bước đi lên và trưởng thành, ngay cả trong khó khăn của thời kỳ đổi mới của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển vững mạnh ấy được xuất phát từ tinh thần đoàn kết, gắn bó trong nội bộ Đảng ủy, Ban chủ nhiệm và các xã viên. Các cán bộ, xã viên trong HTX luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ dám làm để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ qua từng thời kỳ. Trong những năm tới, HTX chú trọng tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý điều hành như là một nhiệm vụ trọng tâm. Trong định hướng phát triển nông nghiệp, HTX Bình Thành vẫn tiếp tục theo chiến lược phát triển đa ngành nghề, tiếp tục cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, đáp ứng thị trường nội địa và xuất khẩu. Có kế hoạch chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý làm tăng thu nhập cho xã viên, giải quyết tốt việc làm cho người lao động. Ngoài ra, HTX chú trọng hơn đến các chế độ xã hội cho xã viên như bảo hiểm xã hội, ưu tiên cho các gia đình chính sách, hộ nghèo; có kế hoạch dành một phần quỹ đào tạo, khuyến học, cấp học bổng toàn phần cho con em hộ xã viên nghèo hiếu học, học giỏi. 2.2 Các lĩnh vực dịch vụ chủ yếu ở nông thôn. - Lĩnh vực dịch vụ thương mại: Lĩnh vực thương mại và dịch vụ nói chung bao gồm những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh và mở cửa về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể xác định và tiến hành những bước đi và giải pháp phù hợp. Nhằm một mặt góp phần cùng thành phố và cả nước thực hiện thành công tiến trình mở cửa, mặt khác cùng góp phần đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hoạt động của thương mại và dịch vụ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Thương mại và dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Thật vậy, dịch vụ - thương mại chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Buôn bán quốc tế, đặc biệt là buôn bán hàng hóa sẽ lưu hành như thế nào nếu không có dịch vụ vận tải? Dịch vụ thanh toán? Chính sự ra đời và phát triển của dịch vụ vận tải như vận tải đường bộ, đường không, đường biển đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa lý, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa từ Quốc gia này đến quốc gia khác, từ khu vực này đến khu vực địa lý khác... Các dịch vụ ngân hàng cũng cho phép khâu thanh toán được diễn ra một cách có hiệu quả, giúp cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu đạt được mục đích trong quan hệ buôn bán. Các dịch vụ viễn thông, thông tin cũng có vai trò hỗ trợ cho các hoạt động thương mại trong việc kích cầu, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Các dịch vụ như dịch vụ đại lý, buôn bán, bán lẻ giữ vai trò trung gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng; đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn thời gian hàng hóa lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư tái sản xuất. Như vậy, dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt động thương mại hàng hóa. Thương mại và dịch vụ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Thông qua hoạt động dịch vụ - thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh mua bán được sản phẩm, góp phần tạo ra quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và như vậy các dịch vụ sẽ lưu thông, các dịch vụ được thông suốt. Có thể nói, nếu không có dịch vụ - thương mại thì sản xuất hàng hóa khó có thể phát triển được. Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, thương mại và dịch vụ đã trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất là bởi vì nhu cầu về dịch vụ xuất phát từ chính các nhà sản xuất khi họ nhận thấy rằng, để có thể tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để h