Đề tài Vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng Trung Ương ở Việt Nam

Từ những năm đầu của thế kỷ XV các ngân hàng thương mại ra đời, hoạt động kinh doanh đa năng nên gọi là ngân hàng thương mại đa năng. Trong thời kỳ này, các ngân hàng đều có chức năng hoạt động như nhau bao gồm phát hàng giấy bạc ngân hàng, kinh doanh, nhận tiền gửi của khách hàng, chiết khấu, cho vay, thực hiện các dịch vụ thanh toán khác. và đương nhiên mục tiêu là lợi nhuận. Để tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng bắt đầu cạnh tranh nhau. Trong quá trình cạnh tranh đó, có nhiều ngân hàng bị phá sản, và tất yếu có nhiều ngân hàng lớn dần lên. Đến cuối thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hóa được mở rộng cả về quy mô và phạm vi. Hoạt động của các ngân hàng được chuyên môn hóa ngày càng cao và tách thành hai nhóm: + Một số ngân hàng lớn, uy tín tách ra khỏi hệ thống ngân hàng thương mại, không kinh doanh tiền tệ nữa, chỉ đảm nhận lệnh phát hành giấy bạc vào lưu thông, mục tiêu vẫn là lợi nhuận. + Các ngân hàng còn lại không phát hành giấy bạc nữa mà chỉ kinh doanh tiền tệ để kiếm tìm lợi nhuận. Như vậy thực tế khách quan đã của nền kinh tế xã hội đã hình thành nên hai nhóm ngân hàng: Nhóm ngân hàng phát hành và các ngân hàng kinh doanh tiền tệ. Chính hoạt động của các ngân hàng phát hành chính là cơ sở để hình thành nên NHTW sau này.

doc23 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2800 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng Trung Ương ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG. Ở VIỆT NAM NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ NHƯ THẾ NÀO? MỤC LỤC Môc lôc 1 Phần I: Tổng quan về vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương 2 1.1. Ngân hàng trung ương 2 1.1.1. Sơ lược sự ra đời của ngân hàng trung ương 2 1.1.2. Vị trí và hoạt động của ngân hàng trung ương 2 1.2. Vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương 3 1.2.1. Chính sách tiền tệ và các công cụ 3 1.2.2. Thanh tra ngân hàng 10 Phần II: Vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của Ngân hàng nhà nước Việt Nam 13 2.1. Giới thiệu chung về Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam 13 2.2. Những thành tựu đạt được của NHNN Việt Nam 14 2.2.1. Hiệu qủa của chính sách tiền tệ 14 2.2.2. Đổi mới các công cụ quản lý 15 2.2.3. Hoạt động quản lý các ngân hàng thương mại 17 2.3. Một số mặt còn yếu trong hoạt động của NHNN Việt Nam 18 2.3.1. Hiệu quả của chính sách tiền tệ đôi khi còn hạn chế 18 2.3.2. Quản lý và thanh tra hoạt động của các ngân hàng thương mại 20 2.4. Một số biện pháp hoàn thiện vai trò điều tiết vĩ mô của NHNN Việt Nam 20 2.4.1. Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ 20 2.4.2. Nâng cao khả năng hoạch định chính sách tiền tệ 22 2.4.3. Đổi mới hoạt động thanh tra ngân hàng 23 Phần I Tổng quan về vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương 1.1. Ngân hàng trung ương 1.1.1. Sơ lược sự ra đời của ngân hàng trung ương Từ những năm đầu của thế kỷ XV các ngân hàng thương mại ra đời, hoạt động kinh doanh đa năng nên gọi là ngân hàng thương mại đa năng. Trong thời kỳ này, các ngân hàng đều có chức năng hoạt động như nhau bao gồm phát hàng giấy bạc ngân hàng, kinh doanh, nhận tiền gửi của khách hàng, chiết khấu, cho vay, thực hiện các dịch vụ thanh toán khác... và đương nhiên mục tiêu là lợi nhuận. Để tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng bắt đầu cạnh tranh nhau. Trong quá trình cạnh tranh đó, có nhiều ngân hàng bị phá sản, và tất yếu có nhiều ngân hàng lớn dần lên. Đến cuối thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hóa được mở rộng cả về quy mô và phạm vi. Hoạt động của các ngân hàng được chuyên môn hóa ngày càng cao và tách thành hai nhóm: + Một số ngân hàng lớn, uy tín tách ra khỏi hệ thống ngân hàng thương mại, không kinh doanh tiền tệ nữa, chỉ đảm nhận lệnh phát hành giấy bạc vào lưu thông, mục tiêu vẫn là lợi nhuận. + Các ngân hàng còn lại không phát hành giấy bạc nữa mà chỉ kinh doanh tiền tệ để kiếm tìm lợi nhuận. Như vậy thực tế khách quan đã của nền kinh tế xã hội đã hình thành nên hai nhóm ngân hàng: Nhóm ngân hàng phát hành và các ngân hàng kinh doanh tiền tệ. Chính hoạt động của các ngân hàng phát hành chính là cơ sở để hình thành nên NHTW sau này. 1.1.2. Vị trí và hoạt động của ngân hàng trung ương Cho đến nay, trên thế giới có ba mô hình tổ chức và quản lý của Ngân hàng trung ương: + Ngân hàng trung ương trực thuộc quốc hội (Ngân hàng dự trữ liên bang Hoa Kỳ, Ngân hàng dự trữ của Cộng hoà liên bang Đức...) + Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ (Ngân hàng Pháp, Ngân hàng Anh, Ngân hàng nhà nước Việt Nam...) + Ngân hàng trung ương trực thuộc bộ tài chính (xuất hiện đầu tiên ở Pháp, Anh, sau đó là các nước Malaysia, Thái Lan, Indonesia...Sau đó, người ta đã lần lượt từ bỏ mô hình này và nó được coi là kinh nghiệm không thành công đối với nền kinh tế thị trường) Mặc dù được tổ chức theo những mô hình khác nhau nhưng nhìn chung, mục tiêu của NHTW là ổn định giá trị đồng tiền cả về đối nội cũng như đối ngoại, tạo điều kiện phát triển kinh tế, kiểm soát hệ thống ngân hàng, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt +động theo trật tự pháp chế, ổn định, an toàn và hiệu quả. Để đạt được các mục tiêu này, NHTW phải thực hiện các chức năng sau: + Phát hành tiền + Là ngân hàng của các ngân hàng trung gian (cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ; chế tài các vụ vi phạm luật ngân hàng; quy định, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc; thanh tra kiểm soát các ngân hàng trung ương; ấn định các lãi suất, lệ phí hoa hồng áp dụng cho các ngân hàng trung gian; quy định những thể lệ điều hành các nghiệp vụ; mở tài khoản giao dịch và tổ chức thanh toán bù trừ cho các ngân hàng trung gian...) + Là ngân hàng của chính phủ (mở tài khoản và đại lý tài chính cho chính phủ; thanh toán cho kho bạc nhà nước; thay mặt chính phủ quản lý các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; thực hiện quản lý dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng bạc, kim khí, đá quý; thực hiện tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong những trường hợp cần thiết...) 1.2. Vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương Vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương thể hiện qua việc lập & điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. 1.2.1. Chính sách tiền tệ và các công cụ Ngân hàng trung ương là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng tiền. Do tính chất đó, ngân hàng trung ương nắm giữ một trong những công cụ quan trọng nhất để quản lý nền kinh tế vĩ mô, đó là chính sách tiền tệ. Khái niệm của chính sách tiền tệ Hoạt động của ngân hàng liên quan đến sự ổn định hay thay đổi của tiền tệ về lưu lượng, chi phí và giá trị, dẫn đến sự tác động vào giá cả hàng hóa và giá trị tài sản, thu nhập của nhân dân, làm chuyển biến mức sống của họ theo hai hướng: khó khăn, đắt đỏ hay thuận lợi tiện nghi. Vì vậy để đạt được sự biến động về đời sống và sinh hoạt kinh tế của cả cộng đồng, người ta có thể bắt đầu bằng tác động vào tiền tệ. Mối quan hệ đó đã làm cho những biến động về tiền tệ được gọi là “Chính sách tiền tệ”. Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế để phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế, trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát (nếu có) nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ quốc gia là tổng thể các biện pháp của nhà nước pháp quyền nhằm cung ứng đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương là tổng thể tất cả các biện pháp, công cụ mà ngân hàng trung ương sử dụng nhằm điều tiết khối lượng tiền tệ, tín dụng, ổn địng tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu của các chính sách kinh tế. Dù quan niệm chính sách tiền tệ theo nghĩa nào, chính sách tiền tệ đều nhằm mục tiêu ổn định giá trị tiền tệ, góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế; chính sách tiền tệ là một bộ phận của tổng thể các chính sách kinh tế của Nhà nước để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế; ở những nước mà Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ thì sự phân biệt chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ quốc gia không có ý nghĩa gì. Trong trường hợp này chính sách tiền tệ mà ngân hàng trung ương thực hiện là chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách tiền tệ luôn hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng nên chủ thể nào thực hiện chức năng phát hành tiền và điều hòa lưu thông tiền tệ thì chủ thể đó phải trực tiếp vạch ra và thực thi chính sách tiền tệ. Chủ thể đó không ai khác ngoài ngân hàng trung ương. Các công cụ của chính sách tiền tệ Để đạt được các mục tiêu đề ra của Chính sách tiền tệ, NHTW phải sử dụng một hệ thống công cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng đó là tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng… Việc sử dụng công cụ nào, mức độ nào tuỳ thuộc vào quan điểm của từng quốc gia. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (hoặc cho vay) của các NHTM. Khi NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nghĩa là giảm khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM từ đó giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Ngược lại, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM sẽ tăng lên (bành trướng khối tiền tệ). Cơ chế tác động Thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động đến cả khối lượng và giá cả tín dụng của các NHTM từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM. + Về số lượng: Tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là giải phóng hay phong tỏa, cho hoặc không cho các NHTM sử dụng khối lượng tiền tệ trung ương bị coi là thiếu hay dư thừa, cũng tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các NHTM. + Về chi phí: Giảm hay tăng dự trữ bắt buộc (dự trữ bắt buộc không được hưởng lãi, nếu có thì thường là rất thấp) sẽ làm giảm hoặc tăng chi phí tín dụng của các NHTM. + Tăng hay giảm số lượng tín dụng kép: do tăng, giảm chi phí, tăng giảm lãi suất cho vay, dẫn đến giảm hoặc tăng dung lượng tín dụng. Ưu điểm: + Nó có thể tác động đầy quyền lực đến quá trình cung ứng tiền tệ. + Tạo nên mối quan hệ giữa tạo tiền do NHTM thực hiện với tái cấp vốn tại NHTW + Tăng cường quyền lực cho NHTW vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng của các NHTM, NHTW có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các NHTM có trách nhiệm thực hiện. + Đảm bảo sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. + Đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM, giúp NHTM tránh được rủi ro do mất khả năng thanh toán. Nhược điểm: + Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay đổi nhỏ trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý. + Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp. + Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của những ngân hàng đó khó khăn hơn. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn (Tín phiếu kho bạc, Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi…) trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung - cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ, cụ thể: + Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát. + Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các NHTM. Ưu điểm + NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng. + Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kì mức độ nào, mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào, NHTW cũng có thể thực hiện được bằng cách mua hoặc bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán. + NHTW dễ đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược việc sử dụng công cụ đó. Thí dụ, nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở. + Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch. Nhược điểm: + Hoạt động thị trường mở là một công cụ gián tiếp, vì vậy nếu các ngân hàng thương mại không phản ứng với hoạt động của ngân hàng trung ương thì công cụ này coi như không phát huy tác dụng. + Để đạt được mục đích điều tiết vĩ mô của mình, NHTW có thể mua với giá cao, bán với giá thấp, do đó làm méo mó thị trường chứng khoán, không phản ánh đúng cung - cầu của các giấy tờ có giá, phá vỡ sự cân bằng tự nhiên của thị trường. Công cụ lãi suất tín dụng Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhưng sự tăng giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại, có sức công phá ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kì nhất định. Cơ chế tác động là công cụ lãi suất Việc điều hành lãi suất chủ yếu được thông qua hai cơ chế: Cơ chế điều hành gián tiếp: Thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá...) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với các chủ thể trong nền kinh tế. Ưu điểm: Nhờ công cụ này NHTW là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Đối với các NHTM, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe dọa thì NHTW là chỗ dựa, là cứu tinh của họ. Bởi vì, với số tiền NHTM cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán. Nhược điểm: NHTW không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Trong trường hợp này, quyền lực của NHTW và NHTM hầu như là ngang nhau. NHTW có quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống, nhưng NHTM lại có quyền quyết định có vay hay không và nếu NHTM không vay thì mục đích của công cụ này không thực hiện được. Cơ chế điều hành trực tiếp: thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân... Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được cho phép, các tổ chức tín dụng có quyền ấn định lãi suất kinh doanh cho phù hợp. Khi có các thay đổi kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Ưu điểm: NHTW có thể quản lý chặt chẽ mức lãi suất của các tổ chức tín dụng, thông qua đó có thể hướng cho nền kinh tế đi đúng theo mục tiêu kế hoạch đã đặt ra. Nhược điểm: Triệt tiêu tính cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng, đặc biệt là giữa các ngân hàng thương mại. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hóa, còn ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này. Công cụ hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể và nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Qua sử dụng hạn mức tín dụng NHTW nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh làm tăng tổng khối lượng tiền quá mức trong nền kinh tế, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của hệ thống ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được quy định. Lúc này, NHTW phải theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt. Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao. Khi đó, nó được NHTW sử dụng nếu các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực. Nhược điểm:Tuy nhiên, kiểm soát trực tiếp tín dụng có nhiều khiếm khuyết. Vì thế, hiện nay ở các nước phát triển và đang phát triển đang từ bỏ cách kiểm soát này để chuyển sang kiểm soát tổng khối lượng tiền cung ứng. Sử dụng công cụ hạn mức tín dụng có một số bất lợi: + Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung về vốn bị giới hạn không thỏa mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. + Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM, bởi vì một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì ngân hàng đó không còn muốn huy động vốn nữa, nếu huy động thêm sẽ gây đọng vốn và gây thiệt hại cho cho ngân hàng. + Hạn mức tín dụng có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế. + Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác định từ trước. Lý do là những ngân hàng có khả năng huy động nhiều vốn thì việc cho vay ra đã bị hạn chế trong khi các ngân hàng không có khả năng huy động vốn thì sẽ cho vay ít hơn so với hạn mức đã được phân bổ. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ phát sinh các tổ chức tài chính mới thực hiện nghiệp vụ ngân hàng ngoài phạm vi kiểm soát của ngân hàng trung ương. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó. + Hạn mức tín dụng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ, vì trước hết các NHTM lựa chọn khách hàng lớn để cho vay. Công cụ hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển, hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM, thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, như nhược điểm đã nêu trên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao vì nó thiếu linh hoạt. Công cụ tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của nội tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái lại là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu hàng hóa và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và hết sức mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ ngoại hối của quốc gia. Về thực chất, tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiên tệ bởi lẽ tỷ giá không làm tăng hay giảm
Luận văn liên quan