Đề tài Văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ và phù hợp với thực tiễn là một trong những chủ trương quan trọng đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Pháp luật, trước hết là kết quả của việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách, đường lối, định hướng phát triển của một quốc gia và trở thành quy ước hành xử chung cho mọi người trong xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời là công cụ quản lý xã hội hữu hiệu nhất của mỗi nhà nước. Điều 12 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này cho thấy, trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật được xác định là một đòi hỏi cấp thiết. Mặt khác, tăng cường pháp chế XHCN là điều kiện tối cần thiết bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời cũng là đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội, là nguyên tắc hiến định trong quản lý Nhà nước ta hiện nay. Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống các cơ quan chính quyền địa phương có một vai trò rất quan trọng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII nêu rõ: “Cơ quan chính quyền nhà nước ở cấp địa phương dựa trên hệ thống thống nhất về pháp luật, chính sách và theo định hướng của kế hoạch Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội đối với mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ, bảo đảm thi hành pháp luật nghiêm minh, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở địa phương, củng cố an ninh và quốc phòng”. Trên nhiều phương diện, các cấp chính quyền địa phương có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân; trực tiếp ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước và là cầu nối giữa Nhà nươc với nhân dân. Trong những năm gần đây công tác văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phương đã được quan tâm đúng mức. Năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND). Luật này quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND. Đây là một văn bản quan trọng giúp cho cho các cấp chính quyền địa phương ban hành những văn bản QPPL cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phương nói chung và tại thành phố Hải Phòng nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được với yêu cầu đổi mới và hội nhập trong giai đoạn hiện nay. Hải Phòng là 1 trong 5 thành phố trực thuộc trung ương, đô thị loại I cấp quốc gia, có vị trí địa lý quan trọng, là 1 trong 3 tỉnh thuộc tam giác phát triển kinh tế phía bắc. Trong những năm qua thành phố Hải Phòng đã đạt được nhiều thành tựu trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trong lĩnh vực văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL, các cấp chính quyền ở thành phố Hải Phòng đã chú trọng đến công tác văn bản QPPL và ban hành ra nhiều văn bản quy phạm cụ thể hóa các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; tổ chức, động viên nhân dân thực hiện pháp luật và đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phương tại thành phố Hải Phòng vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu quản lý, với những thay đổi của đời sống xã hội và bộc lộ một số vấn đề bất cập so với yêu cầu lý luận và thực tiễn. Những bất cập này đã đưa đến tình trạng ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân giảm sút, dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật; tội phạm và vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Đặc biệt, nạn quan liêu, tham nhũng và sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức đang là một trong những nguy cơ trực tiếp đe dọa sự sống còn của hệ thống chính trị, gây bất bình và làm giảm lòng tin của nhân dân, gây ra tình trạng khiếu nại, khiếu kiện đông người kéo dài. Để khắc phục những bất cập trên, đặt các quan hệ xã hội dưới sự điều chỉnh của các QPPL cần nghiên cứu một cách nghiêm túc các vấn đề liên quan đến văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng, để từ đó đề ra các biện pháp nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng. Từ yêu cầu cấp thiết như đã nêu ở trên, tôi chọn đề tài “Văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng”.

doc66 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2293 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ và phù hợp với thực tiễn là một trong những chủ trương quan trọng đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Pháp luật, trước hết là kết quả của việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách, đường lối, định hướng phát triển của một quốc gia và trở thành quy ước hành xử chung cho mọi người trong xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời là công cụ quản lý xã hội hữu hiệu nhất của mỗi nhà nước. Điều 12 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này cho thấy, trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật được xác định là một đòi hỏi cấp thiết. Mặt khác, tăng cường pháp chế XHCN là điều kiện tối cần thiết bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời cũng là đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội, là nguyên tắc hiến định trong quản lý Nhà nước ta hiện nay. Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống các cơ quan chính quyền địa phương có một vai trò rất quan trọng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII nêu rõ: “Cơ quan chính quyền nhà nước ở cấp địa phương dựa trên hệ thống thống nhất về pháp luật, chính sách và theo định hướng của kế hoạch Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội đối với mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ, bảo đảm thi hành pháp luật nghiêm minh, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở địa phương, củng cố an ninh và quốc phòng”. Trên nhiều phương diện, các cấp chính quyền địa phương có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân; trực tiếp ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước và là cầu nối giữa Nhà nươc với nhân dân. Trong những năm gần đây công tác văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phương đã được quan tâm đúng mức. Năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND). Luật này quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND. Đây là một văn bản quan trọng giúp cho cho các cấp chính quyền địa phương ban hành những văn bản QPPL cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phương nói chung và tại thành phố Hải Phòng nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được với yêu cầu đổi mới và hội nhập trong giai đoạn hiện nay. Hải Phòng là 1 trong 5 thành phố trực thuộc trung ương, đô thị loại I cấp quốc gia, có vị trí địa lý quan trọng, là 1 trong 3 tỉnh thuộc tam giác phát triển kinh tế phía bắc. Trong những năm qua thành phố Hải Phòng đã đạt được nhiều thành tựu trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trong lĩnh vực văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL, các cấp chính quyền ở thành phố Hải Phòng đã chú trọng đến công tác văn bản QPPL và ban hành ra nhiều văn bản quy phạm cụ thể hóa các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; tổ chức, động viên nhân dân thực hiện pháp luật và đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phương tại thành phố Hải Phòng vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu quản lý, với những thay đổi của đời sống xã hội và bộc lộ một số vấn đề bất cập so với yêu cầu lý luận và thực tiễn. Những bất cập này đã đưa đến tình trạng ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân giảm sút, dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật; tội phạm và vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Đặc biệt, nạn quan liêu, tham nhũng và sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức đang là một trong những nguy cơ trực tiếp đe dọa sự sống còn của hệ thống chính trị, gây bất bình và làm giảm lòng tin của nhân dân, gây ra tình trạng khiếu nại, khiếu kiện đông người kéo dài. Để khắc phục những bất cập trên, đặt các quan hệ xã hội dưới sự điều chỉnh của các QPPL cần nghiên cứu một cách nghiêm túc các vấn đề liên quan đến văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng, để từ đó đề ra các biện pháp nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng. Từ yêu cầu cấp thiết như đã nêu ở trên, tôi chọn đề tài “Văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng”. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Nhu cầu nghiên cứu về công tác văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phương đã được đặt ra từ lâu và càng trở lên bức thiết trong những năm gần đây. Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND. Luật này quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND. Việc ra đời Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, hiệu quả của Quốc hội. Đóng góp vào thành quả chung đó có các nghiên cứu, các bài viết dưới dạng tham luận, hội thảo, nghiên cứu đăng trên các tạp chí và một số sách tham khảo, chuyên khảo, các luận văn đề cập từ nhiều góc độ khác nhau về hoạt động xây dựng và ban hành văn bản QPPL nói chung, ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phương nói riêng. Có thể liệt kê các nghiên cứu đó như sau: Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp: Chuyên đề “bàn về thẩm quyền, thủ tục và trình tự ban hành văn bản QPPL luật của chính quyền địa phương” số 3 năm 1999; chuyên đề “tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương” số 10 năm 2001; chuyên đề “chính quyền địa phương với việc bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật” số 7 năm 2002; Vụ pháp luật Hình sự - Bộ Tư pháp với hội thảo về chuyên đề “dự án luật sửa đổi, bổ sung Luật ban hành văn bản QPPL năm 1996” Hà Nội năm 2002; chuyên đề “xây dựng và kiểm tra văn bản QPPL của bộ, ngành và địa phương” Hà Nội năm 2003; Hoàng Minh Hà, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về văn bản QPPL của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội, 2004. Việc nghiên cứu về văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phương mới mang tính tổng quát, có tính hệ thống lý luận và trên quy mô cả nước. Còn trong những địa phương nhất định và nhất là trên địa bàn thành phố Hải Phòng thì chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu Mục đích của Luận văn là bước đầu nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng; đề cập đến những vấn đề về đối tượng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, từ đó tìm ra những phương hướng và biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng. Để thực hiện mục đích nghiên cứu, tác giả tập trung vào những nội dung cơ bản sau: - Một số vấn đề lý luận cơ bản về văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phương; - Thực trạng văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng; - Một số giải pháp nâng cao chất lượng văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; những đánh giá về việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật được trình bày trong các văn kiện đại hội, các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam; các văn bản QPPL đã ban hành, các báo cáo, tổng kết về văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng. Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể được sử dụng để nghiên cứu đề tài gồm: - Phương pháp phân tích; - phương pháp tổng hợp; - phương pháp hệ thống. Bên cạnh những phương pháp truyền thống, luận văn còn sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học pháp lý như: phương pháp xã hội học pháp luật; phương pháp luật học so sánh và phương pháp thống kê. 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Những kết quả nghiên cứu của Luận văn có giá trị tham khảo đối với các vấn đề liên quan đến văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại thành phố Hải Phòng nói riêng và các cấp chính quyền địa phương nói chung trong điều kiện đổi mới và hội nhập. Luận văn góp phần bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu, giảng dạy pháp luật ở nước ta hiện nay. 6. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khỏa, luận văn gồm 3 chương, 14 tiết. CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VĂN BẢN QPPL VÀ HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG 1.1 Khái niệm văn bản QPPL Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Hai hiện tượng này luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, và ngược lại, pháp luật chỉ hình thành, phát triển và phát huy hiệu lực bằng con đường Nhà nước. Pháp luật đã trở thành công cụ có hiệu lực nhất để đưa xã hội vào vòng “trật tự” phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị đã sử dụng nhiều hình thức khác nhau để thể hiện ý chí của mình thành pháp luật. Trong lịch sử đã có ba hình thức pháp luật được các giai cấp thống trị sử dụng là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản QPPL. Tập quán pháp là tập quán đã lưu truyền trong xã hội, được nhà nước thừa nhận và nâng lên thành pháp luật. Tập quán pháp có những hạn chế làm cho nó không thể trở thành hình thức (nguồn) chủ yếu của pháp luật XHCN. Cụ thể là: tập quán pháp được hình thành từ các tập quán, mà các tập quán thường được xác lập một cách tự phát, ít biến đổi và có tính cục bộ cao. Hơn nữa, tập quán pháp được hình thành không phải từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do đó nó không thể phản ánh tập trung đầy đủ ý chí, lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và cũng không đáp ứng được một trong những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa là triệt để tôn trọng giá trị pháp lý của các văn bản do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành. Tiền lệ pháp là các quyết định có trước về từng vụ việc cụ thể của cơ quan hành chính cấp trên hoặc cơ quan xét xử cấp trên được nhà nước thừa nhận là khuôn mẫu để các cơ quan tương ứng ngang cấp và cấp dưới giải quyết những vụ việc tương tự xảy ra sau này. Tiền lệ pháp, xét về nguồn gốc cũng có những hạn chế làm cho nó không thể được coi là hình thức (nguồn) chủ yếu của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Điều đó thể hiện ở chỗ, tiền lệ pháp được hình thành từ hoạt động thực tiễn của cơ quan hành pháp và tư pháp, chứ không phải do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành. Vì thế dễ tạo ra sự tùy tiện, phá vỡ tính thống nhất của pháp luật và không phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đối với văn bản QPPL, sở dĩ được coi là hình thức (nguồn) chủ yếu nhất và quan trọng nhất của pháp luật xã hội chủ nghĩa vì nó có những đặc điểm mà tập quán pháp và tiền lệ pháp không thể có được. Theo khoản 1, điều 1 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.” Văn bản QPPL là hình thức pháp luật tiến bộ nhất và hiện đại nhất, được sử dụng trong tất cả các nhà nước. Văn bản QPPL có những đặc điểm chủ yếu sau đây. Một là: Do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành Theo điều 2 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 những cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm bao gồm: Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng Kiểm toán Nhà nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ phối hợp với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, Chánh án Toà án nhân dân tối cao phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phối hợp với nhau, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp. Hai là: Được ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật ban hành văn bản QPPL hoặc trong Luật ban hành văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Văn bản QPPL được ban hành theo trình tự từ khâu lập chương trình, soạn thảo, thẩm tra, thẩm định, lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo, cho đến thông qua, ký, công bố văn bản QPPL. Tất cả đều phải tuân thủ đúng quy định luật định. Vì thế, mặc dù văn bản được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền, nội dung hợp pháp nhưng trong quá trình xây dựng và ban hành không tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thủ tục thì cũng không thể là văn bản QPPL. Ngoài ra, một văn bản được coi là văn bản QPPL còn phải được ban hành đúng hình thức do pháp luật quy định. Tại điều 2 của Luật ban hành văn QPPL năm 2008 quy định rõ chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm với tên gọi khác nhau. Ví dụ: Bộ trưởng được ban hành văn bản QPPL dưới hình thức là thông tư; HĐND các cấp được ban hành văn bản QPPL dưới hình thức là nghị quyết… nếu các chủ thể này ban hành các văn bản không dưới những tên gọi được quy định ở trên thì dù có chứa đựng các QPPL cũng không được coi là văn bản QPPL vì không đúng tên gọi do Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 quy định. Ba là: Có chứa quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Từ khái niệm này ta thấy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Các quy tắc xử sự chính là những khuôn mẫu, chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia các quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh. Các QPPL được chứa đựng trong các văn bản QPPL. Trong quan hệ giữa các QPPL và văn bản QPPL thì các QPPL là nội dung còn văn bản QPPL là hình thức. Từ đó khẳng định văn bản QPPL luôn luôn chứa đựng các QPPL. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của văn bản QPPL. Tính bắt buộc chung của các QPPL được hiểu là bắt buộc đối với mọi chủ thể nằm trong điều kiện, hoàn cảnh mà QPPL quy định. QPPL được đặt ra không phải cho những chủ thể cụ thể mà cho các chủ thể không xác định. Đây là điểm khác biệt với văn bản áp dụng pháp luật, bởi vì nội dung văn bản áp dụng pháp luật bao giờ cũng chứa đựng quy tắc xử sự riêng đối với cá nhân, tổ chức cụ thể được xác định. Vì vậy văn bản QPPL được áp dụng nhiều lần trên thực tế còn văn bản áp dụng pháp luật chỉ có hiệu lực duy nhất một lần. Văn bản QPPL được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tổ chức, hành chính, kinh tế. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân, tổ chức cố tình không thực hiện hoặc thực hiện sai các quy định của văn bản QPPL. Văn bản QPPL có hiệu lực trong phạm vi cả nước hoặc từng địa phương tùy thuộc vào thẩm quyền của chủ thể ban hành, cũng như nội dung của mỗi văn bản. Thông thường văn bản QPPL do cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành có hiệu lực pháp lý trên phạm vi cả nước, còn văn bản QPPL do địa phương ban hành thì có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ địa phương đó. Như vậy chỉ có những văn bản nào có đầy đủ các đặc điểm nêu trên mới được coi là văn bản QPPL. 1.2 Khái niệm văn bản QPPL do chính quyền địa phương ban hành Thuật ngữ chính quyền địa phương, lâu nay được sử dụng trong khoa học pháp lý như một khái niệm tổng quát, bao gồm các cấp chính quyền từ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện); xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Cơ quan chính quyền địa phương được lập ra để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước trên địa bàn lãnh thổ. Với tinh thần đổi mới của Đảng, Hiến pháp năm 1992 đã đặt nền tảng, cơ sở pháp lý cho sự đổi mới về tổ chức hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương. Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và sự phân loại các cơ quan hành chính thì chính quyền địa phương hiện nay có hai hệ thống cơ quan: HĐND các cấp và UBND các cấp. Tổ chức cơ quan chính quyền địa phương dưới hình thức HĐND và UBND ở tất cả các cấp đơn vị hành chính được nhìn nhận là hình thức phù hợp, vừa đảm bảo lợi ích của nhân dân địa phương, vừa đảm bảo lợi ích của Nhà nước. Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND định nghĩa về văn bản QPPL của chính quyền địa phương tại khoản 1 điều 1 như sau: “Văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân là văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung có hiệu lực trong phạm vi địa phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội địa phương theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bên cạnh những đặc điểm của văn bản QPPL nói chung, văn bản QPPL của chính quyền địa phương còn có những đặc điểm riêng như sau: 1.2.1 Văn bản QPPL của chính quyền địa phương là sự cụ thể hóa các qui định của pháp luật và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên Về phương diện lý luận và thực tiễn, các cơ quan Nhà nước ở trung ương dù có cố gắng đến mấy cũng không thể ban hành được một hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu của mọi địa phương trong toàn quốc. Vì mỗi địa phương có những đặc điểm riêng không nơi nào giống nơi nào. Chính vì vậy, để phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, trên cơ sở các quy định của cơ quan Nhà nước ở trung ương, các cơ quan Nhà nước địa phương ban hành văn bản QPPL để cụ thể hóa cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của địa phương. Hơn nữa, quan hệ xã hội với tư cách là đối tượng điều chỉnh của pháp luật, vốn đã phức tạp lại đang trong quá trình chuyển đổi đầy biến động. Trong điều kiện như vậy, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống pháp luật nước ta là cần có nhiều loại văn bản với giá trị pháp lý khác nhau (được các cấp khác nhau ban hành) thì mới phúc đáp được yêu cầu của đời sống xã hội hiện nay. Pháp luật, vì vậy, không những chỉ điều chỉnh quan hệ xã hội mà yêu cầu đặt ra lúc này là phải góp phần ổn định các quan hệ xã hội, đưa các hoạt động vào khuôn khổ, trật tự của nó. Trước những đòi hỏi từ thực tiễn, nhiệm vụ hướng dẫn, thi hành Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên là một nhiệm vụ tất yếu của các cấp chính quyền địa phương khi ban h
Luận văn liên quan