Một trong những yêu cầu phải sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa đổi năm 2004) (Luật các TCTD hiện hành) là đảm bảo sự đồng bộ giữa các quy định của Luật TCTD và các luật khác đã được ban hành trong thời gian qua, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán, Luật Cạnh tranh, Luật Hợp tác xã, Luật Phá sản. và nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với các tổ chức tín dụng (TCTD).
6 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1838 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vấn đề cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng
Một trong những yêu cầu phải sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa đổi năm 2004) (Luật các TCTD hiện hành) là đảm bảo sự đồng bộ giữa các quy định của Luật TCTD và các luật khác đã được ban hành trong thời gian qua, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán, Luật Cạnh tranh, Luật Hợp tác xã, Luật Phá sản... và nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với các tổ chức tín dụng (TCTD).
1. Một số vấn đề chung
Một trong những yêu cầu phải sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa đổi năm 2004) (Luật các TCTD hiện hành) là đảm bảo sự đồng bộ giữa các quy định của Luật TCTD và các luật khác đã được ban hành trong thời gian qua, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán, Luật Cạnh tranh, Luật Hợp tác xã, Luật Phá sản... và nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với các tổ chức tín dụng (TCTD). Trong bối cảnh toàn hệ thống ngân hàng phải nỗ lực đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập và xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại, thì việc bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm cũng như đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá, tính năng động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của các TCTD càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Để bảo đảm các nguồn lực cho các TCTD hoạt động, Nhà nước có chính sách động viên các nguồn lực trong nước là chính và tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước; mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, bảo đảm cho doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia; bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia; mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân.
Với những chính sách, pháp luật như trên, hoạt động của các TCTD nước ta thời gian qua đã có những bước tăng trưởng đột biến (1), sự tăng trưởng này vừa là thời cơ, vừa là thách thức trong việc tạo lập thị trường tài chính an toàn, lành mạnh. Để thành công trong cạnh tranh, nhiều TCTD đã tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược để nâng cao tiềm lực tài chính của mình, tạo cơ sở cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng cũng mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Để bảo đảm an toàn cho hoạt động của các TCTD, Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2007/NĐ-CP về giới hạn góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam…
Sức ép hội nhập buộc các TCTD phải cạnh tranh với nhau để tạo lập vị trí của mình trên thị trường. Luật các TCTD đã có những quy định về hợp tác và cạnh tranh của các TCTD tại Điều 16. Theo Điều luật này, các tổ chức hoạt động ngân hàng được hợp tác và cạnh tranh hợp pháp. Nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và lợi ích hợp pháp của các bên. Hành vi cạnh tranh bất hợp pháp bao gồm: a) Khuyến mại bất hợp pháp; b) Thông tin sai sự thật làm tổn hại lợi ích của tổ chức tín dụng khác và của khách hàng; c) Đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ; d) Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác.
Các nhà làm luật cũng đã quan tâm đến việc bảo đảm môi trường pháp lý thông thoáng cho các TCTD hoạt động có hiệu quả theo hướng tách tín dụng chính sách và tín dụng thương mại, theo hướng Nhà nước thành lập các ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục đích lợi nhuận để phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác; phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước cũng như những quy định khác nhằm nâng cao tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các TCTD trong hoạt động. Tuy nhiên, các quy định của Luật các TCTD hiện hành về cạnh tranh vẫn còn những hạn chế như quy định chưa cụ thể, chưa rõ ràng, nhất là về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi lũng đoạn thị trường hoặc tập trung kinh tế… Điều này sẽ ẩn chứa những bất ổn cho thị trường ngân hàng.
2. Quy định về cạnh tranh trong Dự thảo Luật
Kế thừa những quy định của các văn bản pháp luật đã ban hành, Dự thảo Luật các TCTD (2) đã quy định khá cụ thể về việc bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các TCTD, như TCTD có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ kinh doanh của tổ chức tín dụng; TCTD có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ khác, nếu thấy không đủ điều kiện, không có hiệu quả, không phù hợp với pháp luật; mọi tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật được NHNN cấp Giấy phép thì được thực hiện một, một số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam; không một tổ chức, cá nhân nào được nhận tiền gửi, cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc thực hiện hoạt động ngân hàng khác, nếu không có Giấy phép do NHNN cấp...
Nghiên cứu quy định tại Điều 9 của Dự thảo luật, chúng tôi xin được nêu lên một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, Dự thảo Luật các TCTD sửa đổi vẫn tiếp tục quan niệm “hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng” là không rõ ràng về nội dung điều chỉnh của điều luật. Đây là hạn chế lớn nhất trong quan niệm về cạnh tranh của Luật các TCTD hiện hành cần được khắc phục, bởi lẽ hợp tác và cạnh tranh là hai thuật ngữ có nội hàm khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt (3), cạnh tranh là “cố gắng làm hơn những người nhằm cùng mục đích với mình để tới trước hoặc đạt kết quả tốt hơn, hợp tác là “cùng làm những việc chung”. Do đó, việc tiếp tục để “hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng” theo chúng tôi là không hợp lý. Không những thế, toàn bộ nội dung của Điều 9 Dự thảo Luật các TCTD sửa đổi lại tập trung quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh. Dự thảo Luật các TCTD đã có thay đổi thuật ngữ “cạnh tranh bất hợp pháp” thành “hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh”. Sự phân biệt hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh là phù hợp với Luật Cạnh tranh.
Thứ hai, Luật Cạnh tranh cũng quy định rõ trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật Cạnh tranh với quy định của luật khác về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh thì áp dụng quy định của Luật Cạnh tranh, điều đó có nghĩa là, việc xác định hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh được quy định theo hướng mở là các Luật chuyên ngành được quy định các tiêu chí xác định hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh phù hợp với đặc thù ngành. Do vậy, việc dự thảo Luật các TCTD giao cho NHNN quy định cụ thể về các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh và hình thức xử lý các hành vi này là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về ngân hàng. Tuy nhiên, việc quy định các tiêu chí để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh không phải là chuyên đơn giản, vì nếu không quy định cụ thể, rõ ràng, nó sẽ tác động tiêu cực đến diễn biến hoạt động của thị trường ngân hàng.
Trước hết, về hành vi hạn chế cạnh tranh, Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định, hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Do vậy, để bảo đảm tính cụ thể của quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh cần:
- Làm rõ thế nào là làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường của các TCTD, nhất là việc kiểm soát nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần tại các NHTM trong nước. Thị trường ngân hàng nước ta đã chứng kiến không ít vụ bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài của các NHTM trong nước, như ANZ tham gia 10% vào Sacombank; HSBC mua 10% của Techcombank; Standar Chertered mua 8,6% vào ACB, UOB mua 10% vào Phương Nam Bank; Deutsche Bank mua 10% của Habubank, OCBC mua 20% cổ phần của VPBank; Sumitomo Mitsui mua 15% cổ phần của Eximbank, song việc tham gia góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, cũng như xu hướng sáp nhập, hợp nhất, mua lại là nguyên nhân của hiện tượng làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường của các TCTD trên thị trường ngân hàng. Theo quy định của Nghị định số 69/2007/NĐ-CP giới hạn góp vốn, mua cổ phần của các NHTM Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài tối đa là 30% đối với một NHTM song các quy định này không giới hạn một nhà đầu tư nước ngoài được phép góp vốn, mua cổ phần tối đa ở bao nhiêu NHTM, và như vậy, sẽ không có gì bảo đảm là các nhà đầu tư nước ngoài không dùng “phép cộng” phần vốn đầu tư của mình trên thị trường thì sẽ dẫn đến vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để gây bất ổn trên thị trường.
- Theo quy định của Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 xác định: các NHTM nhà nước và các NHTM cổ phần chi phối của Nhà nước đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong hệ thống ngân hàng về quy mô hoạt động, năng lực tài chính, công nghệ, quản lý và hiệu quả kinh doanh. Các NHTM nhà nước cùng với NHTM cổ phần trong nước đóng vai trò nòng cốt trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các TCTD nước ngoài và các TCTD phi ngân hàng khác góp phần bảo đảm sự phát triển hoàn chỉnh, an toàn và hiệu quả của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các NHTM Việt Nam với chất lượng dịch vụ cao và thương hiệu mạnh này dường như xác nhận Nhà nước vẫn cọi trọng và dành một “khu vực riêng” các NHTM nhà nước, vậy có phải Nhà nước đã gián tiếp thừa nhận vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền NHTM nhà nước trên thị trường ngân hàng? Đây là nội dung cần được quan tâm làm rõ trong các quy định pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng.
Hai là, về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Cho đến thời điểm hiện nay, các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, đạo đức kinh doanh ngân hàng nói riêng vẫn là một cụm từ định tính, cần phải được làm rõ trong các quy định pháp luật cạnh tranh. Do vậy, để bảo đảm thống nhất trong các quy định pháp luật cạnh tranh của các TCTD, NHNN cần phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nhanh chóng xây dựng bộ chuẩn quy tắc đạo đức kinh doanh ngân hàng làm cơ sở cho việc thực thi các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ ba, dự thảo Luật các TCTD chưa tạo được cơ chế phối hợp giữa NHNN và Cơ quan Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương trong việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh và tố tụng cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Theo quy định tại Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 9/01/2006 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh, Cơ quan quản lý cạnh tranh có các nhiệm vụ, quyền hạn về cạnh tranh bao gồm: a) Thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh để Hội đồng cạnh tranh xử lý theo quy định của pháp luật; b) Tổ chức điều tra xử lý đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh khác theo quy định của pháp luật; c) Thẩm định hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ theo các quy định của pháp luật để trình Bộ trưởng Bộ Thương mại quyết định hoặc trình Thủ trướng Chính phủ quyết định; d) Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế; đ) Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, các doanh nghiệp độc quyền, về quy tắc cạnh tranh trong hiệp hội, về các trường hợp miễn trừ. Do vậy, để bảo đảm thực thi tốt chức năng của Cục Quản lý Cạnh tranh thì NHNN cần phối hợp với Cục Quản lý Cạnh tranh trong việc quản lý hoạt động cạnh tranh và cơ chế chia sẻ thông tin về hoạt động quản lý cạnh tranh, nhất là việc phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh của các TCTD.
Theo quy định tại Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 của Chính phủ về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập, có chức năng xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. Hội đồng cạnh tranh có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: i) Tổ chức xử lý các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của pháp luật; ii) Thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh để giải quyết một vụ việc cạnh tranh cụ thể; iii) Yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao; iv) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hành chính sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ việc cạnh tranh theo quy định của pháp luật; v) Giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của pháp luật; vi) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Theo quan điểm của chúng tôi, trong cơ cấu Hội đồng Cạnh tranh khi tiến hành xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh cũng như tố tụng cạnh tranh cần có sự tham gia của NHNN nhằm tạo cơ chế phối hợp trong việc phát hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh để ngăn chặn có hiệu quả những hậu quả xấu đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng và thị trường ngân hàng Việt Nam.
3. Một số đề xuất
Để bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng§, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
Một là, cần quan tâm đến những yếu tố tác động trực tiếp đến các quy định về hoạt động cạnh tranh của các TCTD là:
- Vì mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, NHNN có thể can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng bằng việc quy định lãi suất cơ bản và lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu; ấn định tỉ lệ dự trữ bắt buộc; áp dụng chế độ kiểm soát đặc biệt đối với TCTD lâm vào tình trạng phá sản, cấp giấy phép hoạt động… Những can thiệp này từ phía NHNN vào hoạt động kinh doanh ngân hàng là cần thiết, song nó đã làm hạn chế một phần quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh của các TCTD. Sự can thiệp của NHNN còn có thể tạo ra những lợi thế cạnh tranh cho một vài tổ chức tín dụng so với các đối thủ khác trên thị trường và điều đó dường như có ảnh hưởng không tốt đến sự vận hành bình thường của quy luật cạnh tranh, như NHNN áp dụng các biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với TCTD lâm vào tình trạng phá sản (trường hợp của Ngân hàng Việt Hoa (4)), hoặc NHNN tiến hành việc xóa nợ, gia hạn nợ đối với các khoản vay của các NHTM nhà nước hoặc “bơm” vốn bổ sung cho các NHTM nhà nước….
- Trong thực tiễn hoạt động, xu hướng hợp tác giữa các tổ chức tín dụng với nhau để cùng tồn tại và phát triển là tất yếu, vấn đề đặt ra là sự hợp tác của các TCTD được thực hiện đến đâu và đến mức nào là nội dung cần phải được quan tâm giải quyết triệt để. Chúng ta vẫn còn nhớ sự kiện NHTM cổ phần á Châu do tin đồn thất thiệt đã bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ, nếu không có sự cam kết của Thống đốc NHNN và sự hỗ trợ của NHNN và các NHTM trên địa bàn thì nguy cơ phá sản Ngân hàng này là điều có thể xảy ra. Bên cạnh đó, trong hoạt động, các TCTD sẽ hỗ trợ cho nhau. Sự hợp tác giữa các TCTD chỉ thật sự bình đẳng, thân thiện và minh bạch nếu việc hợp tác này diễn ra công khai, rõ ràng và có thể kiểm soát được.
Hai là, chúng tôi cho rằng nên quy định thành chương riêng về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Việc đề xuất này dựa trên một số lập luận sau đây:
- Ngân hàng được xem là lĩnh vực kinh doanh mang lại lợi nhuận cao, nhưng cũng hết sức nhạy cảm. Sự sụp đổ của một NHTM có thể dẫn đến phản ứng dây chuyền, tác động mạnh đến sự ổn định của nền kinh tế và đời sống xã hội;
- Như đã phân tích ở trên, Luật Cạnh tranh cũng quy định rõ trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật Cạnh tranh với quy định của luật khác về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh thì áp dụng quy định của Luật Cạnh tranh. Nghĩa là Luật các TCTD sửa đổi hoàn toàn có cơ sở pháp lý và thực tiễn để quy định cụ thể về hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Để làm được điều này đúng định hướng, đồng thời bảo đảm những đặc thù trong hoạt động của các TCTD và Luật Cạnh tranh thì khó có thể làm rõ trong một điều luật. Mặc dù dự thảo Luật các TCTD trao quyền cho NHNN quy định cụ thể về các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh và hình thức xử lý các hành vi này, song việc cụ thể hóa các quy định về hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh bằng một văn bản dưới luật thì việc giải thích sẽ đi quá xa hoặc không truyền tải hết nội dung của Luật là điều không tránh khỏi.
- Các quy định khung về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng sẽ tạo được ranh giới can thiệp của NHNN đúng với Luật Cạnh tranh. Luật Cạnh tranh đã quy định rõ cơ quan nhà nước không được thực hiện các hành vi sau đây để cản trở cạnh tranh trên thị trường: i) Buộc doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật; ii) Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp; iii) ép buộc các hiệp hội ngành nghề hoặc các doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm loại trừ, hạn chế, cản trở các doanh nghiệp khác cạnh tranh trên thị trường; iv) Các hành vi khác cản trở hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp. Vì vậy, theo chúng tôi, nếu để NHNN toàn quyền quyết định trong việc quy định cụ thể về các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh và hình thức xử lý các hành vi này sẽ rơi vào tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” thì sẽ rất khó khăn cho việc tạo lập môi trường kinh doanh ngân hàng an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
Nội dung chương quy định về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm:
- Tên chương có thể đặt là “Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng” hoặc “cạnh tranh và quản lý hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng”.
- Nội dung chương quy định về các vấn đề: Nguyên tắc cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng; tiêu chí xác định hoặc quy định cụ thể các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng và hoạt động quản lý nhà nước về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng.
Như vậy, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Hoạt động cạnh tranh chỉ thành công và được coi là biện pháp bảo đảm thiết lập trật tự thị trường phát triển an toàn, lành mạnh khi có được các quy định pháp luật cạnh tranh cụ thể, rõ ràng, dễ áp dụng, nhất là đối với lĩnh vực nhạy cảm, dễ làm tổn thương đến nền kinh tế - xã hội thì cần phải được nghiên cứu một cách thận trọng để tránh những hậu quả đối với nền kinh tế. Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực như vậy.
(1) Xem thêm, Huỳnh Thế Du, Hệ thống tài chính và những góc khuất, Taichinh/ Thitruong/ Thitruongthucap/9648.saga.
(2) Dự thảo ngày 15/4/2009.
(3) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội năm 1994, tr 123.
(4) Xem thêm Thời báo Kinh tế Sài Gòn số ra ngày 17 /9/2006.