Đề tài Vấn đề ô nhiễm môi trường trong các khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh thực trạng và các giải pháp kinh tế

Vớivai trò khởi động quá trình phát triển công nghiệp tại một số địa điểm chọn lọc, tạo điều kiện phát triển công nghiệp rộng rãi trên phạm vi cả nước, góp phầnquan trọng thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, càng ngày các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) càng khẳng định vai trò to lớn ấy của mình trong quá trình hội nhập. Song bên cạnh những đóng góp to lớncho nền kinh tế thì các KCN, KCX đang là mối lo lắng của cộng đồng khi càng ngày mức độ ô nhiễm môi trường do các KCN, KCX gây ra càng gia tăng. Nhất là tại TPHCM, việc các KCN, KCX gây ô nhiễm môi trường đã trở thành mối đe dọa cho công cuộc “phát triển bền vững” của chính quyền và nhân dân thành phố. Bởi vậy, đề tài nghiên cứunhằm cung cấp một cái nhìn tổng thể và chi tiết thực trạng ô nhiễm tại các KCN, KCX trên địa bàn TPHCM, làm rõ nguyên nhân phát sinh đồng thời đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để khắc phục tình trạng này

pdf393 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3555 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề ô nhiễm môi trường trong các khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh thực trạng và các giải pháp kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT ĐỀ TÀI 1. Lý do chọn đề tài Với vai trò khởi động quá trình phát triển công nghiệp tại một số địa điểm chọn lọc, tạo điều kiện phát triển công nghiệp rộng rãi trên phạm vi cả nước, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, càng ngày các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) càng khẳng định vai trò to lớn ấy của mình trong quá trình hội nhập. Song bên cạnh những đóng góp to lớn cho nền kinh tế thì các KCN, KCX đang là mối lo lắng của cộng đồng khi càng ngày mức độ ô nhiễm môi trường do các KCN, KCX gây ra càng gia tăng. Nhất là tại TP HCM, việc các KCN, KCX gây ô nhiễm môi trường đã trở thành mối đe dọa cho công cuộc “phát triển bền vững” của chính quyền và nhân dân thành phố. Bởi vậy, đề tài nghiên cứu nhằm cung cấp một cái nhìn tổng thể và chi tiết thực trạng ô nhiễm tại các KCN, KCX trên địa bàn TPHCM, làm rõ nguyên nhân phát sinh đồng thời đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để khắc phục tình trạng này. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu lý luận:  Làm rõ vấn đề môi trường trong quá trình toàn cầu hóa (các vấn đề môi trường và gìn giữ môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế)  Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong vấn đề kiểm soát và ngăn chặn hiện tượng ô nhiễm môi trường có liên quan đến phát triển kinh tế và rút ra bài học cho việc ngăn chặn ô nhiễm tại các KCN TP.HCM 2.2. Mục tiêu thực tiễn:  Đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường nước, khí và chất thải rắn liên quan đến sự phát triển công nghiệp hóa và phát triển công nghiệp ở các KCN tại TPHCM  Nghiên cứu các nhân tố tác động đến tình hình ô nhiễm tại các KCN TPHCM  Đề xuất hệ thống các giải pháp kinh tế – xã hội – pháp luật để giải quyết tình trạng ô nhiễm ở các KCN TPHCM 3. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 3.1. Phương pháp nghiên cứu:  Phương pháp khảo sát thực tế thông qua phát phiếu điều tra..  Phương pháp nghiên cứu tại bàn.  Phương pháp nghiên cứu điển hình (Case study) 3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 3.2.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường có liên quan đến phát triển kinh tế ở các khu công nghiệp tại TP HCM 3.2.2. Phạm vi nghiên cứu: Tại các khu công nghiệp điển hình TP HCM 4. Nội dung nghiên cứu: bao gồm có 3 chương và các phụ lục kèm theo  Chương 1: Vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan đến phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế  Chương 2: Thực trạng ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất TP.HCM  Chương 3: Những giải pháp ngăn ngừa và khắc phụcc hiện tượng ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp tại TP.HCM 5. Đóng góp của đề tài: Đề tài đưa ra nghiên cứu vấn đề khá “nóng bỏng” hiện nay, đó là vấn nạn ô nhiễm môi trường tại các KCN, KCX TP.HCM mà trong các đề tài báo cáo nghiên cứu trước đây (chẳng hạn: “Báo cáo vấn đề BVMT trong phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam”, GS.TSKH Ngô Thế Thi, trường ĐH Xây dựng; Tiểu luận về “Thực trạng các KCN ở Việt Nam và những giải pháp”, Văn Thị Thanh Tuyền, Trương Thị Như Hiếu, Trường ĐH Kinh Tế TP.HCM;…) thì những vấn đề môi trường trong các KCN được đề cập rất ít và dàn trải, hoặc vấn đề được báo cáo trên góc độ quá vĩ mô. Chưa có một đề tài nào nghiên cứu chi tiết về thực trạng ô nhiễm KCN trên địa bàn TPHCM và các giải pháp kinh tế khắc phục. Vì vậy tính cấp thiết và thực tiễn của đề tài là ở chỗ phản ánh kịp thời, cung cấp được cách nhìn khá chi tiết về tình hình ô nhiễm tại các KCN TPHCM và đồng thời đưa ra các giải pháp, kiến nghị phù hợp. 6. Hướng phát triển của đề tài: Đề tài mở ra hướng nghiên cứu sâu hơn nguồn gốc phát sinh ô nhiễm tại các doanh nghiệp trong các KCN, KCX trên toàn bộ lưu vực sông Sài Gòn-Đồng Nai nhằm đưa ra các giải pháp kinh tế tích hợp, mang tính ứng dụng chung cho toàn khu vực. 1CHƯƠNG 1 VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1. Vấn đề ô nhiễm môi trường trong quá trình toàn cầu hóa về kinh tế Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu, song nó mang lại cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thế giới ngày càng có tính liên kết và tác động tương hỗ lẫn nhau. Thế giới được liên kết bởi các tổ chức kinh tế, thương mại, các tổ chức xã hội, và ngày càng hướng tới một cộng đồng kinh tế chung cho cả một khu vực, nhưng đồng thời thế giới cũng được liên kết bởi các loại bệnh dịch, chủ nghĩa khủng bố, di cư và cả nạn ô nhiễm - trong đó có vấn đề “hiệu ứng nhà kính” và sự biến đổi môi trường toàn cầu, v.v... Qua một số nghiên cứu cho thấy, một trong các vấn đề nổi cộm của nạn ô nhiễm toàn cầu hiện nay chính là tình trạng ô nhiễm môi trường từ các KCN, KCX do công tác thu gom, xử lý và đổ thải các loại rác công nghiệp yếu kém, các khí đốt từ các nhà máy thải ra vượt quá mức cho phép, gây ô nhiễm nguồn nước trầm trọng, chất lượng không khí bị suy giảm… Tại các nước đang phát triển, chỉ 30-50% lượng rác thải được giải quyết. Thậm chí ở một số nước có nền kinh tế đang phát triển, tốc độ tăng lượng rác thải còn lớn hơn tốc độ tăng dân số. Tại Ấn Độ, chỉ 217/3119 thành phố có hệ thống cống thải; và sông Hằng là một trong những con sông ô nhiễm nhất thế giới do hứng chịu chất thải từ 115 thành phố công nghiệp. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện đang có 1,2 tỷ người sống trong môi trường ô nhiễm quá tiêu chuẩn vệ sinh hiện hành; 2 tỷ người đang khát; hơn 2 tỷ người vẫn thiếu nước sạch và điều kiện sử dụng nước vệ sinh. Nghiên cứu cũng cho thấy biến đổi khí hậu chịu 20% trách nhiệm đối với việc thiếu nước sạch, trong khi sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế chịu trách nhiệm đến 80%. Xu hướng phát triển công nghiệp đa ngành, đặc biệt là công nghiệp nặng, công nghiệp hóa chất là nguyên nhân phát sinh phần lớn chất thải độc hại. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), ô nhiễm không khí và nước tại các quốc gia đang phát triển ở châu Á sẽ tiếp tục tăng gấp 5 - 10 lần ở giai đoạn 2005-2010. Ô nhiễm đô thị và công nghiệp hiện này đang là tác nhân gây ô nhiễm nặng nề đến các vùng nông nghiệp lân cận. Vấn nạn ô nhiễm môi trường không của riêng một quốc gia nào mà đang là mối quan tâm chung của toàn thế giới. Trước 2sức ép của phát triển kinh tế, nhiều quốc gia đã xem nhẹ việc QLMT, làm cho môi trường sinh thái bị tàn phá nặng nề, điều này không những ảnh hưởng ngược lại tới đời sống xã hội mà còn đến cả chính trị, kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế mang màu sắc tích cực, sẽ đưa quốc gia phát triển bền vững đi đôi với việc có được một môi trường sống lành mạnh và ngược lại sẽ là “ con dao hai lưỡi” nếu một quốc gia quá chú trọng vào nó mà không để ý đến những mặt trái mà việc hủy hoại, tàn phá môi trường là một ví dụ điển hình. 1.2. Xu hướng chuyển dịch tư bản dẫn tới ô nhiễm ở các nước nghèo Chuyển dịch tư bản (CDTB) từ ngành này sang ngành khác trong phạm vị lãnh thổ một nước, cũng như từ nước này sang nước khác chủ yếu nhằm để tìm kiếm lĩnh vực đầu tư có nhiều lợi nhuận hơn. Tỉ suất lợi nhuận cao trước mắt hoặc dự đoán có thể có trong tương lai bao giờ cũng là động lực thúc đẩy CDTB. Trong hệ thống kinh tế xã hội, hàng hoá được di chuyển từ sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của vốn, nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, phế thải. Các thành phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Hiện nay xu hướng CDTB dẫn tới ô nhiễm môi trường nặng nề từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thể hiện rõ thông qua FDI. Có thể thấy cùng với những lợi ích do FDI mang lại, các nước đang phát triển phải đối mặt với những thách thức, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là nạn "xuất khẩu" ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển trên thế giới đang ngày càng gia tăng. Trong quá trình thị trường của thời buổi hội nhập ngày càng yêu cầu phải thay đổi tư duy quan niệm về sản xuất sạch và BVMT, thì vai trò của các DN đầu tư nước ngoài, nhất là các MNCs có tầm quan trọng rất lớn trong quá trình tạo lập tính bền vững môi trường của các dự án FDI. Thông thường MNCs có công nghệ sạch, áp dụng những chuẩn môi trường cao hơn so với yêu cầu của nước chủ nhà, do vậy có khả năng góp phần vào quá trình phát triển bền vững môi trường của nước chủ nhà. Tuy nhiên, có trường hợp MNCs đưa các dây chuyền sản xuất ô nhiễm, hoặc chuyển giao các công nghệ lạc hậu tới nước chủ nhà, mà những công nghệ này không được chấp nhận tại nước đầu tư. Việc “xuất khẩu” ô nhiễm đã mang lại cho các MNCs một lợi thế cạnh tranh mới nhờ giảm chi phí sản xuất. Nguyên nhân của tình trạng này là do chi phí để khắc phục ô nhiễm môi trường tại các nước phát triển rất cao. Các DN của 3các nước này buộc phải tìm đến giải pháp chuyển lĩnh vực sản xuất gây ô nhiễm của họ ra nước ngoài. Các nước phát triển như: Đức, Áo, Bỉ, Đan Mạch... đang đánh thuế mạnh vào các ngành gây ô nhiễm, trong khi đó các nước đang phát triển lại có mức thuế thấp hơn nhiều do khát vốn. Vô hình chung, các nước nghèo này trở thành những nước “nhập khẩu” ô nhiễm. Từ những nhận định và phân tích trên đây, quả thật các nước nghèo đang phải hứng chịu nhiều hệ quả của việc bành trướng và phát triển kinh tế và kỹ nghệ của các nước phát triển. Nếu chính phủ các nước đang phát triển không tỉnh táo trước mặt trái của chu trình CDTB này thì vấn nạn “nhập khẩu” ô nhiễm là càng trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết và vô hình chung một lần nữa lại đẩy nhanh, đẩy mạnh cho việc chuyển dịch ô nhiễm mà hệ lụy chính là môi trường của chính quốc gia mình. 1.3. Các vòng đàm phán của WTO và các Hiệp định đa phương (MEAs) có liên quan đến bảo vệ môi trường và sự hưởng ứng của các nước 1.3.1. Vấn đề môi trường ra đời trước khi hình thành WTO: Bước vào những năm đầu của thập kỷ 70, các nước ký kết Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) bắt đầu nhận thấy rằng các vấn đề môi trường cần được giải quyết trong khuôn khổ GATT vì chúng liên quan đến thương mại. Sự khởi đầu này gắn liền với Hội nghị về Môi trường Con người (Conference on Human Environment) được tổ chức tại Stockhom năm 1972. Mối quan tâm ban đầu trong GATT là cần hạn chế ảnh hưởng của chính sách môi trường đối với tự do hoá thương mại trong khuôn khổ của GATT. Tuy nhiên vấn đề này vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa và vẫn còn được tranh luận trong các cuộc đàm phán của GATT, nhất là ở vòng đàm phán Uruguay. 1.3.2. Diễn biến vấn đề môi trường qua các Hội nghị của WTO Sau khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, WTO được thành lập, hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ nhất tại Singapore từ ngày 9-13/12/1996 đã ra tuyên bố ủng hộ những diễn biến thảo luận về thương mại và môi trường (TM&MT) trong WTO vào thời điểm này, đồng thời yêu cầu Uỷ Ban Thương mại Môi trường tiếp tục phát huy chức năng của mình trong việc xúc tiến thảo luận các chủ đề liên quan tới lĩnh vực môi trường. Tới Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 3 từ ngày 30/11- 3/12/1999 tại Seatle, Hoa Kỳ, các Bộ trưởng tiếp tục thảo luận về vấn đề TM&MT trong khuôn khổ phiên thảo luận về các 4vấn đề nông nghiệp và các vấn đề liên quan tới quy định của WTO. EU lên tiếng ủng hộ các cuộc đàm phán đối với vấn đề thương mại có liên quan tới môi trường. Tuy nhiên, các thành viên đã không đi tới kết luận hay tuyên bố nào về vấn đề này . Tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 4 từ ngày 9-14/11/2001 tại Doha, Quatar, Bộ trưởng các nước Thành viên đã ra tuyên bố chung về các vấn đề TM&MT, trong đó chủ yếu là phát động cuộc đàm phán về những vấn đề có liên quan và xác định những vấn đề cần tiếp tục thảo luận để đưa vào chương trình đàm phán. Song song với những nội dung được nhất trí đưa vào chương trình nghị sự, Hội nghị Doha cũng nhất trí rằng các nước sẽ quan tâm đặc biệt tới những vấn đề TM&MT khác không thuộc nội dung của chương trình đàm phán. Các Bộ trưởng đã thừa nhận tầm quan trọng của công tác hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực TM&MT đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển. Các Bộ trưởng cũng khuyến khích việc trao đổi kiến thức và kinh nghiệm giữa các Thành viên WTO để có thể tiến hành các cuộc rà soát về môi trường ở cấp độ quốc gia. “Chúng tôi chỉ thị cho Uỷ ban TM&MT dành sự quan tâm đặc biệt tới những vấn đề sau trong quá trình theo đuổi các nội dung của Chương trình hành động trong khuôn khổ các điều khoản nghĩa vụ của Uỷ ban này:  Tác động của các biện pháp môi trường đối với tiếp cận thị trường, đặc biệt là việc tiếp cận thị trường của các nước đang phát triển và kém phát triển, và xem xét những trường hợp mà việc tự do hoá thương mại có lợi cho thương mại, môi trường và sự phát triển.  Các quy định liên quan trong Hiệp định WTO về Các vấn đề Sở hữu trí tuệ có liên quan tới Thương mại (TRIPs).  Các yêu cầu về dán nhãn vì mục đích BVMT.  Xây dựng năng lực và rà soát môi trường. ” ( Đoạn 32, Tuyên bố Hội nghị Bộ trưởng Doha, tài liệu WTO số WT/MIN(01)/DEC/) 5Cho đến nay, do có nhiều quan điểm khác nhau nên chương trình đàm phán về môi trường chỉ giới hạn với những quy định hiện hành của WTO (Phụ lục 1) và những nghĩa vụ mang tính chất thương mại trong MEAs. Ngoài ra, nội dung đàm phán được quy định là không ảnh hưởng tới quyền lợi của các Thành viên WTO không tham gia MEAs, đồng thời cũng làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo các Hiệp định hiện hành của WTO. 1.3.3. Các hiệp định đa phương về môi trường (MEAs) liên quan tới thương mại Trong hơn 20 năm qua có hơn 200 MEAs được biết đến. Một số ít là các hiệp ước toàn cầu, mở ra cho tất cả các quốc gia. Rất nhiều các hiệp ước song phương không được biết đến, ước lượng khoảng hơn 1000 hiệp ước. Điều này cho thấy một cấu trúc quốc tế về QLMT là gồm nhiều loại khác nhau và nó phản ánh phạm vi khác nhau của các hiệp ước và tiêu chí của các hiệp ước. Nhìn tổng thể chúng ta có thể nhận thấy rằng sự liên quan giữa thương mại và các MEAs là không phổ biến, chỉ khoảng 1/10 các hiệp định có đề cập đến TM&MT đáng chú ý. Nguyên nhân là do các đo lường của MEAs không ảnh hưởng quan trọng đến lưu chuyển thương mại hay giá trị của các lưu chuyển thương mại mà chúng có ảnh hưởng thì không quan trọng trên phương diện toàn cầu. Tuy vậy, những hiệp định này đã tồn tại có ảnh hưởng quan trọng đến các dòng lưu chuyển thương mại quốc tế. Theo Uỷ ban TM&MT của WTO, chỉ có khoảng 14 MEAs (Phụ lục 2) trong đó sử dụng các quy định và biện pháp thương mại. Bên cạnh hệ thống phân loại này của WTO, chương trình môi trường của liên hiệp quốc (UNEP) cũng đưa ra một danh mục khoảng gần 30 Hiệp định đa phương về môi trường trong đó có thể có các quy định liên quan đến thương mại. Nhìn chung trong giai đoạn hội nhập kinh tế toàn cầu, ô nhiễm môi trường luôn là chủ đề tranh luận nóng bỏng trên các diễn đàn quốc tế. Các nước có nhiều quan điểm khác nhau, hầu hết đều phản ánh quyền lợi của họ trong thương mại quốc tế. Mặc dù chưa có nhiều tiến triển nhưng một khi đã được đưa vào chương trình nghị sự đàm phán thì vấn đề môi trường trong thương mại quốc tế đã được chính thức thừa nhận và tất yếu sẽ diễn biến và ảnh hưởng đáng kể đối với các bên liên quan. 61.4. Nghiên cứu vấn đề chống ô nhiễm ở các nước và các bài học kinh nghiệm rút ra cho phát triển các KCN Việt Nam ( những bài học thành công và thất bại ) 1.4.1. Trung Quốc (TQ) với ô nhiễm môi trường và bài học “cái bắt tay hiệu quả với cộng đồng” Trung Quốc trong những năm gần đây được biết đến như một cường quốc với tốc độ tăng trưởng kinh tế chóng mặt. Nhưng cùng với tăng trưởng kinh tế cao, tình trạng ô nhiễm nói chung và ô nhiễm tại các đô thị, KCN, KCX ở TQ cũng tăng đến mức báo động. Trong danh sách 20 đô thị ô nhiễm nhất thế giới (điều tra năm 2006), TQ đã chiếm đến 16. Mặc dù Chính phủ TQ đã tiến hành nhiều biện pháp nhưng môi trường tại một số khu vực vẫn tiếp tục xấu đi, đặc biệt là tại tỉnh Quảng Đông, tình trạng ô nhiễm môi trường từ các KCN, KCX ngày càng tồi tệ. Năm 2003, lượng CTCN tại đây đã lên đến 68 tấn/người, so với 56 tấn/người ở Giang Tô và Chiết Giang, 27 tấn/người ở Sơn Đông. Mưa axit - hậu quả của lượng khí sulfuric thải ra từ than đốt của các nhà máy điện công nghiệp – ngày càng nhiều và đậm đặc hơn. Đến năm 2005, ước tính thiệt hại do ô nhiễm nguồn nước và không khí – 2 nguồn ô nhiễm chính ở TQ mất từ 8-15% GDP của nước này (GDP-2005 là 1.800 tỷ USD), chưa kể đến thiệt hại đối với sức khỏe. Nhìn chung, ngân sách cho công tác làm sạch môi trường ở TQ ngày càng tăng lên. Chi phí cho môi trường năm 2003 tăng gần 20% so với năm 2002, đạt 20,1 tỷ USD, chiếm 1,4% GDP của nước này. Năm 2006, Chính phủ đã thông qua một kế hoạch tốn kém chi tới 175 tỷ USD, tương đương khoảng 1,5% GDP để khắc phục ô nhiễm nguồn nước, không khí tại các thành phố và ngăn chặn nạn xói mòn tài nguyên đất. Cũng trong năm này, TQ phải bỏ ra khoảng 135 tỉ đô la Mỹ (tương đương với 7% GDP, 2006) để đầu tư vào các công nghệ kiểm soát ô nhiễm tiên tiến nhất. (Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 2/12/2004, tr.53) Trước sự cảnh báo của các tổ chức thế giới về nạn ô nhiễm, chính phủ TQ đã phải xem xét lại toàn bộ hệ thống QLMT nói chung và vấn nạn ô nhiễm từ các KCN; từ chỗ thay vì chờ xử lý hậu quả của ô nhiễm, Chính phủ chỉ đạo nắm rõ nguồn gốc gây ô nhiễm và điều khiển toàn bộ quy trình xử lý ô nhiễm; từ chỗ chỉ tập trung quản lý những thành phần DN gây ô nhiễm trong các KCN, KCX sang tập trung quản lý một cách đồng bộ và điều chỉnh quy hoạch lại KCN, KCX, khuyến khích “Sản xuất sạch” và hướng tới một “nền kinh tế tuần hoàn”. Ngoài ra, Chính phủ còn kêu gọi các tỉnh, thành phố cùng với nhân dân vùng bị ô nhiễm bắt 7tay nhau cùng giải quyết vấn nạn. Và điều này đã phát huy tác dụng. Chính quyền các tỉnh cam kết sẽ đầu tư đến năm 2010 khoảng 5,5 tỷ đô-la Mỹ mỗi năm để làm sạch các con sông và 2,2 tỷ đô-la nữa để XLCT sinh hoạt và CTCN. Chính quyền các địa phương còn củng cố và cải thiện hệ thống pháp lý, thắt chặt hơn công tác kiểm soát khí thải. Bên cạnh đó, Chính phủ còn thông qua dự Luật đánh giá tác động môi trường đòi hỏi có sự tham gia góp ý kiến của cộng đồng dân cư, những tổ chức phi chính phủ và các tình nguyện viên trong dân chúng. Hiện nay, Trung Quốc có hơn 1000 tổ chức hoạt động vì môi trường như vậy. Công chúng ở đây có quyền kiểm soát, giám sát ô nhiễm và báo cáo xử lý cho lực lượng quản lý. Điều này đã làm phát huy sức mạnh BV&QLMT từ phía người dân, khiến họ tích cực hơn trong công tác chống ô nhiễm. Nhờ đó lượng nước thải, Oxigen từ hóa chất, Sunfur dioxit, khói và bụi công nghiệp thải ra tính trên GDP đầu người vào năm 2004 giảm đáng kể lần lượt 58%, 72%, 42%, 55% and 39% kể từ năm 1995 ( theo: SCIO). Các thành phố ở TQ cũng kêu gọi đầu tư từ khu vực tư nhân cho các hoạt động môi trường. Kể từ năm 2001, chính quyền các tỉnh đã đưa ra kế hoạch tư nhân hoá các hoạt động cải tạo môi trường. Và đến nay, công tác xử lý nước thải, chất thải rắn, chất thải công nghiệp và giao thông công cộng đang là các dịch vụ tư nhân được phép đầu tư. Mục tiêu cuối cùng của việc làm này là để hướng tới việc “chính quyền sẽ không cần phải đầu tư vào các lĩnh vực này nữa”. 1.4.2. Các “biện pháp cứng rắn” trong việc chống ô nhiễm môi trường tại Singapore Hiện Singapore được đánh giá là quốc đảo sạch vào bậc nhất thế giới, và điều này không đến một cách ngẫu nhiên. Chính từ những hậu quả do sự công nghiệp hóa mạnh mẽ làm gia tăng ô nhiễm không khí, rồi chất thải lỏng và chất thải rắn làm môi trường xuống cấp rõ rệt vào ba bốn thập kỷ trong thế kỷ trước, đã làm Singapore sớm nhận thức được không có con đường nào khác là phải tự mình thực hiện tốt các chương trình BVMT. Đến nay, một cách nhìn toàn diện, chưa có nước nào có được môi trường đô thị tốt hơn Singapore. Đó là do đất nước này có một chiến lược QLMT rất cứng rắn, thực hiện nghiêm chỉnh kế hoạch hoá việc sử dụng đất đai, biết kiểm soát kế h