Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta không thể quên
được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà cột
mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm thay đổi bộ mặt
kinh tế Nhà nước.
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu
và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu phải đổi mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Mục tiêu đó là sự cụ thể
hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội
Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta.
Đề tài: "Vận dụng lý luận Mac- Lênin vào sự nghiệp chuyển hóa thành rồng ở
Việt Nam" phức tạp và rộng. Do trình độ có hạn, nên không tránh khỏi khiếm
khuyết trong việc nghiên cứu. Rất mong nhận được đóng góp ý kiến của thầy cô
và các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn.
13 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1795 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng lý luận Mac - Lênin vào sự nghiệp chuyển hóa thành rồng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
A. Giới thiệu vấn đề
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta không thể quên
được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà cột
mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm thay đổi bộ mặt
kinh tế Nhà nước.
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu
và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu phải đổi mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Mục tiêu đó là sự cụ thể
hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội
Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta.
Đề tài: "Vận dụng lý luận Mac- Lênin vào sự nghiệp chuyển hóa thành rồng ở
Việt Nam" phức tạp và rộng. Do trình độ có hạn, nên không tránh khỏi khiếm
khuyết trong việc nghiên cứu. Rất mong nhận được đóng góp ý kiến của thầy cô
và các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn.
B. Giải quyết vấn đề
I. Hình thái kinh tế xã hội Mác - Lênin.
2
Mọi người đều biết, tronglịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có không ít
cách tiếp cận, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất phát từ những
nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân chia lịch sử
tiến hoá của xã hội theo những cách khác nhau.
Mọi người cũng đã quen với khái niêm thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đại
cối xay gió, thời đại máy hơi nước... và gần đây là các nền văn minh: văn minh
nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên cứu lịch
sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã hình thành nên học thuyết
"hình thái kinh tế xã hội". Hình thái kinh tế - xã hội là một khái niệm chủ nghĩa
duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định. Với một điều quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định củalực
lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuât ấy.
Là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật về lịch sử, lý luận hình thái kinh tế
- xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét cả lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng, tức toàn bộ các yếu
tố cấu trúc thành bộ mặt của thời đại: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa
học, kỹ thuật... Do đó, nó cắt nghĩa xã hội được sáng tỏ hơn, toàn diện hơn, chỉ ra
cả bản chất và quá trình phát triển của xã hội. Loài người đã trải qua năm hình
thái kinh tế - xã hội theo trật tự từ thấp đến cao đó là. Hình thái kinh tế - xã hội
3
cộng sản nguyên thuỷ, chiến hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và ngày nay
đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và diệt phong.
Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay
thế. Đó là khi phương thức sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, hoặc khủng hoảng do
mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá lơn không thể phù
hợp thì phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất hiện một phương thức
sản xuất mới hoàn thiện hơn, có quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất.
Như vậy bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối quan hệ biện chứng
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là biểu hiện trình
độ trình phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Lịch
sử sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (quan hệ nhất là
công cụ lao động) với người lao động với kinh nghiệm và kỹ năng lao động nghề
nghiệp. Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người sản xuất vật chất thể hiện
ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý trao đổi hoạt
động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong quan hệ sản xuất quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết định các quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra. Song nó được hình thành một cách khách
quan không phụ thuộc vào yếu tổ chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất
4
mang tính ổn định tương đối với bản chất xã hội và tính phương pháp đa dạng
trong hình thức biểu hiện.
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng vơi nhau
biểu hiển ở chỗ:
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến đổi
đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất mà
trước hết là công cụ.
Công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện
có và xuất hiện đòi hỏi khách quan, phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế
bằng quan hệ sản xuất mới.
Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù hợp)
nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất (đông) với quan hệ sản xuất (ổn định
tương đối) quan hệ sản xuất lại trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất (không phù hợp). Phù hợp là không phù hợp là biểu hiện mâu
thuẫn biện chứng củalực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tức là sự phù hợp
trong mâu thuẫn bao hàm mâu thuẫn. Khi phù hợp cũng như nếu không phù hợp
với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với lực
lượng sản xuất thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại đối với lực lượng sản
xuất, quy định múc đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi
ích, từ đó hình thành những yếu tố tồn tại thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng
thông qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản. Phù
5
hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là khách quan
và phổ biến của mọi phương thức sản xuất.
Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất như sự
thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội. Tác động
qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được Mác -
Anghen khái quát thành quya luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình
độ, tính chất của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và biên đổi của quan hệ sản xuất.
Khi không thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lượng sản
xuất, mâu thuẫn của chúng tất yếu sẽ nảy sinh. Biểu hiện của mâu thuẫn này
trong xã hội là giai cấp là mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất, loài người
đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội,
dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến ở các nước Tây Âu lực lượng sản
xuất đã mang những yếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuất phong kiến. Mặc
dù hình thức bóc lột của các lãnh chúa phong kiến được thay đổi liên tục từ địa tô
lao dịch đến địa tô hiện vật, địa tô bằng tiền song quan hệ sản xuất phong kiến
chật hẹp vẫn không chứa đựng được nội dung mới của lực lượng sản xuất. Quan
hệ sản xuất của Tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế quan hệ sản xuất phong kiến.
Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực lượng sản xuất phát triển, cùng với sự phân
công lao động và tính chất xã hội hoá công cụ sản xuất đã hình thành lao động
6
chung của người dân có tri thức và trình độ chuyên môn hoá cao. Sự lớn mạnh
này của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa. Giải quyết mâu thuẫn đó đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất
tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa. Theo Mác, do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay
đổi phát triển sản xuất của mình và do đó thay đổi phát triển sản xuất làm ăn của
mình, loài người thay đổi các quan hệ sản xuất của mình.
Phù hợp có thể hiểu ở một số nội dung chủ yếu là: cả ba mặt của quan hệ sản
xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối ưu giữa tư
liệu sản xuất và sức lao động, bảo đảm trách nhiệm từ sản xuất mở rộng.
Mở ra sau những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần với
người lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
người sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác động của quy
luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các phương thức
sản xuất hay chính alà của các hình thái kinh tế - xã hội. Dưới những hình thức
và mức độ khác nhau thì con người có ý thức được hay không và quy luật cốt lõi
này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy tiến hoá của lịch sử không chỉ những
lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh tế, phi kinh tế.
2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mỗi hình thái kinh tế - xã hội
Không chỉ đặc trưng bằng quan hệ sản xuất mà nó còn đặc chưng bởi một kiến
trúc thượng tầng xây dựng trên những quan hệ sản xuất của chính nó.
7
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương
ứng và những quan hệ nội tạng của thượng tầng, đó là những quan điểm tư tưởng
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và các thể chế
tương ứng như Nhà nước Đảng phái, giáo hội và các đoàn thể quần chúng.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp toàn bộ những quan hệ sản
xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định người ta gọi đó là
cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống trị nền kinh
tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản xuất mới là quan
hệ mầm mống của xã hội sau.
Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh tế khác nhau,
mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ sản xuất trong đó
quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các thành phần kinh
tế khác. ở xã hội có giai cấp đối kháng giai cấp này nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, từ
những mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sở nẩy sinh giai cấp đối
kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp thống trị về kinh tế sẽ thống trị về
chính trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội, trong đó hệ tư
tưởng chính trị và bộ máy quản lý nhà nước có vị trí quan trọng nhất.
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Vai trò quyết định của cơ sở hạ
tầng với kiến trúc thượng tầng được thể hiện ở một số mặt:
8
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí thống trị về
mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất cả các lĩnh vực
khác).
Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Mâu thuẫn giai cấp mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hội và đời sống tinh
thần của họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu thuẫn kinh tế, từ những
quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi về
kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra ngay trong những hình thái kinh tế xã
hội cũng như khi chuyển tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế xã hội khác
trong các xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng được biểu hiện là mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng được biểu
hiện là mâu thuẫn của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi hạ tầng cũ bị xoá
bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào đó là kiến trúc
thượng tầng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ sở hạ tầng mới.
Sự thống trị của giai cấp thống trị cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ, thay bằng hệ tư
tưởng thống trị khác và các thể chế tương ứng của giai cấp thống trị mới. Đương
nhiên không phải "khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập tức sẽ dẫn đến sự thay đổi
của kiến trúc thượng tầng". Trong quá trình hình thành và phát triển củ kiến trúc
thượng tầng mới, nhiều yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại gắn liền
với cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó. Vì vậy giai cấp cầm quyền cần phải biết lựa
chọn một số bộ phận hợp lí để sử dụng nó xây dựng xã hội mới.
9
b) Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ
sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải phụ thuộc một chiều vào cơ
sở hạ tầng mà trong quá trình phát triển, chúng có những tác động qua lại với
nhau và ảnh hưởng lớn đến cơ sở hạ tầng cũng như các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội.
Vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện trên các
mặt sau:
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là thực hiện nhiệm vụ đấu
tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, xây dựng bảo vệ củng cố
và phát triển cơ sở hạ tầng mới. Kiến trúc thượng tầng chính là công cụ của giai
cấp thống trị, các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng có tác dụng mạnh
mẽ đối với cơ sở hạ tầng nhưng thường những tác động ấy phải thông qua hệ
thống chính trị, pháp luật hay các thể chế tương ứng khác.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không giảm đi, mà
ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Trái lại kiến trúc
thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa nhằm xây
dựng xã hội mới, chính mục đích đó quyết định tính tích cực càng tăng của kiến
trúc thượng tầng của xã hội chủ nghĩa.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện trong hai
trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quan hệ kinh
tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội. Ngược lại nếu kiến trúc thượng
tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự phát triển của
10
kinh tế xã hội, những sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời sớm muộn cũng sẽ
bị cách mạng khắc phục về cơ bản, bản chất giữa cơ sở hạ tầng và cơ sở thượng
tầng chính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế đóng vai trò
quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và có tác dụng mạnh
mẽ trở lại. Cần tránh khuynh hướng quá thổi phồng hoặc hạ thấp vai trò của kiến
trúc thượng tầng. nếu tuyệt đối hoá vai trò của kiến trúc thượng tầng thì sẽ rơi
vào tả khuynh còn ngược lại sẽ rơi vào hữu khuynh.
II. Sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá ở Việt Nam
Dựa trên cơ sở những lý luận chung trên đây, phần tiếp theo của đề tài xin phép
được đi sâu vào vấn đề "hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá ở Việt Nam". Tính tất yếu của mục tiêu và thực trạng ở nước ta
trong công cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội - xã hội chủ nghĩa.
1. Tính tất yếu
Loài người đã phải trải qua 5 hình thái kinh tế. Mỗi hình thái sau tiến bộ hơn, văn
minh hơn hình thái trước.
Đầu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên (cộng sản nguyên thuỷ) con người chỉ biết
săn bắn hái lượm, ăn thức ăn sống cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào
thiên nhiên. Có thể nói đây là thời kỳ sơ khai một thời kỳ mông muội của loài
người. Sau đó đến hình thái kinh tế xã hội: Chiếm hữu nô lệ con người đã văn
minh hơn họ không còn ăn tươi sống và đã biết lao động tạo ra của cải, xã hội
chế độ tư hữu. Xã hội bắt đầu phân chia thành kẻ giầu người nghèo. Hai giai cấp
cơ bản là chủ nô và nô lệ, quan hệ giữa hai giai cấp đó là quan hệ bóc lột hoàn
11
toàn của cải vật chất và con người. Nô lệ biến thành công cụ lao động. Vấn đề
giai cấp khi lên đến xã hội phong kiến bản chất vẫn là quan hệ bóc lột những sự
bóc lột thể hiện qua sự cống nạp. Người nông dân, tá điền phải làm thuê và nộp
tô thuế cho quan lại, địa chủ, song họ có một chút quyền lợi là được tự do.
Hình thái kinh tế xã hội: Tư bản chủ nghĩa ra đời đưa loài người lên nấc thang
cao hơn của nền văn minh. Xã hội đã phong phú hơn về giai cấp. Giai cấp thống
trị là giai cấp cơ bản. Thủ đoạn bóc lột của chúng tinh vi hơn rất nhiều lần so với
sự bóc lột trước đó trong các xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Người công
nhân làm thuê bị bóc lột sức lao động qua giá trị thặng dư, sự làm việc quá sức...
Mặc dù tư bản xã hội chủ nghĩa tạo ra một lượng của cải vật chất rất lớn cho xã
hội, nhưng bản chất bóc lột cùng những mâu thuẫn khác là không thể điều hoà.
Phần đông con người trong xã hội tư bản chủ nghĩa đều bị mất quyền lợi mất
bình đẳng. Cả ba chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa có những đặc điểm
riêng nhưng nó đều là chế độ có khác những mâu thuẫn đối kháng không thể điều
hoà giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, và dựa trên sự tư hữu về sản xuất.
Giai cấp bóc lột là giai cấp thống trị, mọi hoạt động về mặt kinh tế chính trị xã
hội đều chỉ phục vụ cho quyền lợi của chính họ.
Một hình thái kinh tế xã hội tồn tại được thì nó phải có những mặt tốt nhất định
của nó chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành quả mà các hình thái kinh
tế xã hội nói trên đã đạt được. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ xã hội đầu
tiên đặt nền móng cho sự phát triển của loài người. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ
giai cấp thống trị bắt đầu tích luỹ của cải cho xã hội, quan trọng nhất là nó đưa
con người ra khỏi thời kỳ mông muội hoang dã. Hình thái kinh tế xã hội là chế
12
độ xã hội bước đầu vừa phát huy thừa kế những thành quả của chủ nghĩa tư bản,
đồng thời khắc phục những mâu thuẫn những hạn chế của tư bản chủ nghĩa. Một
xã hội mà quyền lực nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động -
một tầng lớp đông đảo của xã hội. Mọi hoạt động kinh tế - văn hoá - chính trị
phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội. Không còn tình trạng bóc lột, mọi người
đều bình đẳng, sinh hoạt lao động dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp
luật thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ tập chung dân chủ
công bằng xã hội. Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở của lực lượng sản
xuất và trình độ phát triển cao cơ sở hạ tầng phù hợp với kiên trúc thượng tầng.
Đây là hình thái kinh tế xã hội ưu việt một đỉnh cao của văn minh loài người.
Từ hai con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, một con đường tư bản chủ nghĩa và
con đường đi từ tiến tư bản chủ nghĩa.
Việt Nam từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu và
nhanh chóng đạt đến trình độ một nước phát triển bằng con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2. Mục đích:
Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định là: Xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế lập
hiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng văn minh, và nước ta đã chuyển sang một thời kỳ
phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đây là những