Đề tài Văn hóa Ấn Độ

Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ. Ấn Độ có ranh giới với Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và Afghanistan. Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một tỉ người, và đồng thời lớn thứ bảy về diện tích. Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Sự thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những người tại Nam Á để thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có nền văn minh sông Ấn (Indus) phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm. Ấn Độ là nơi sinh trưởng của bốn tôn giáo quan trọng trên thế giới: Ấn Độ giáo (Hindu), Phật giáo, đạo Jaini và đạo Sikh. Trước ngày độc lập, Ấn Độ là một bộ phận trong tiểu lục địa Ấn Độ thuộc Anh. Việc thành lập quốc gia này có công rất lớn của Mohandas Gandhi, người được ca tụng là "người cha của Ấn Độ". Ông đã thuyết phục chính phủ Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ bằng con đường hòa bình và được chấp nhận. Nhưng Anh đã quyết định tách Ấn Độ thành hai quốc gia: một có đa số dân theo đạo Hindu là Ấn Độ; một có đa số dân theo Hồi giáo là Pakistan, nước này lại gồm hai phần: phần phía đông Ấn Độ gọi là Đông Pakistan (sau này là Bangladesh), phần phía tây gọi là Tây Pakistan (Cộng hòa Hồi giáo Pakistan ngày nay). Hai phần lãnh thổ này cách nhau trên 2000 km băng qua lãnh thổ Ấn Độ. Bài tiểu luận này có nội dung tổng kết một vài nét chính về tình hình lịch sử, chính trị- xã hội, kinh tế của Ấn Độ trong thời kỳ cận đại và trong giai doạn hiện nay. Rất mong được sự góp ý từ quý thầy cô và các bạn.

docx15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5619 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Văn hóa Ấn Độ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ. Ấn Độ có ranh giới với Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và Afghanistan. Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một tỉ người, và đồng thời lớn thứ bảy về diện tích. Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Sự thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những người tại Nam Á để thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có nền văn minh sông Ấn (Indus) phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm. Ấn Độ là nơi sinh trưởng của bốn tôn giáo quan trọng trên thế giới: Ấn Độ giáo (Hindu), Phật giáo, đạo Jaini và đạo Sikh. Trước ngày độc lập, Ấn Độ là một bộ phận trong tiểu lục địa Ấn Độ thuộc Anh. Việc thành lập quốc gia này có công rất lớn của Mohandas Gandhi, người được ca tụng là "người cha của Ấn Độ". Ông đã thuyết phục chính phủ Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ bằng con đường hòa bình và được chấp nhận. Nhưng Anh đã quyết định tách Ấn Độ thành hai quốc gia: một có đa số dân theo đạo Hindu là Ấn Độ; một có đa số dân theo Hồi giáo là Pakistan, nước này lại gồm hai phần: phần phía đông Ấn Độ gọi là Đông Pakistan (sau này là Bangladesh), phần phía tây gọi là Tây Pakistan (Cộng hòa Hồi giáo Pakistan ngày nay). Hai phần lãnh thổ này cách nhau trên 2000 km băng qua lãnh thổ Ấn Độ. Bài tiểu luận này có nội dung tổng kết một vài nét chính về tình hình lịch sử, chính trị- xã hội, kinh tế của Ấn Độ trong thời kỳ cận đại và trong giai doạn hiện nay. Rất mong được sự góp ý từ quý thầy cô và các bạn. Ấn Độ thời kỳ cận đại Thành tựu hàng hải của Vasco da Gama đã tìm ra cho châu Âu một hải trình mới tới Ấn Độ vào năm 1498 và tạo thuận lợi cho thương mại Ấn-Âu. Người Bồ Đào Nha nhanh chóng thiết lập các thương điếm tại Goa, Daman, Diu và Bombay. Tiếp theo là người Hà Lan, người Anh thiết lập một thương điếm ở cảng Surat năm 1619— rồi người Pháp. Những cuộc xung đột giữa các vương quốc Ấn Độ đã tạo cơ hội cho thương nhân châu Âu dần dần tạo được những ảnh hưởng chính trị và trú chân vững chắc. Mặc dù những thế lực châu Âu lục địa này đã kiểm soát nhiều khu vực ở Nam và Đông Ấn Độ trong thế kỷ sau đó, cuối cùng họ vẫn để mất tất cả lãnh địa của mình ở Ấn Độ vào tay người Anh, ngoại trừ ngoài Pháp còn giữ được các tiền đồn ở Pondicherry và Chandernagore, người Hà Lan còn giữ được cảng ở Travancore, và người Bồ Đào Nha chỉ còn vài thuộc địa nhỏ ở Goa, Daman, và Diu. Công ty Đông Ấn Anh quốc được hoàng đế Môgôn là Jahangir cho phép buôn bán với Ấn Độ vào năm 1617. Dần dần họ tăng được ảnh hưởng của mình và làm cho hoàng đế Môgôn trên thực tế là Farrukh Siyar trao cho họ dastaks hay quyền buôn bán tự do ở Bengal vào năm 1717. Nawab of Bengal Siraj Ud Daulah, người cai trị trên thực tế tỉnh Bengal, đã chống lại những nỗ lực của người Anh khai thác quyền lợi này. Điều đó dẫn tới Trận Plassey năm 1757, tại đó "quân đội" của Công ty Đông Ấn do Robert Clive chỉ huy đã đánh bại quân của Nawab. Đây là cơ sở chính trị đầu tiên để người Anh đòi hỏi quyền lợi về lãnh thổ ở Ấn Độ. Clive được Công ty Đông Ấn bổ nhiệm làm "Toàn quyền Bengal" đầu tiên vào năm 1757. Sau Trận Buxar năm 1764, Công ty Đông Ấn đã đòi được quyền dân sự về hành chính ở Bengal; việc này đánh dấu sự khởi đầu của công cuộc cai trị chính thức, mà về sau đã nhấn chính hầu hết Ấn Độ và làm tiêu tan sự thống trị Môgôn cũng như chính vương triều này trong vòng 1 thế kỷ tiếp theo. Công ty Đông Ấn đã giữ độc quyền về thương mại ở Bengal. Họ ban hành chế độ địa tô gọi là Permanent Settlement - một chế độ kiểu phong kiến ở Bengal (xem Zamindar). Vào những năm 1850, Công ty Đông Ấn đã kiểm soát gần hết tiểu lục địa Ấn Độ, bao gồm cả Pakistan và Bangladesh ngày nay. Chính sách cai trị của họ đôi khi được mô tả cô đọng là Chia để trị, lợi dụng sự kình định giữa các tiểu vương quốc, các nhóm xã hội và tôn giáo. Trong thời kỳ British Raj, nạn đói, thường góp phần làm cho các chính sách cai trị thất bại, một vài trận đói khủng khiếp nhất còn được ghi chép lại, gồm cả Đại nạn đói 1876–78, đã khiến cho từ 6,1 triệu đến 10,3 triệu người chết và nạn đói ở Ấn Độ 1899–1900, làm từ 1,25 triệu đến 10 triệu người chết. Đại dịch hạch lần thứ ba khởi đầu từ Trung Quốc giữa thế kỷ 19, lây lan khắp lục địa và đã làm 10 triệu người Ấn Độ thiệt mạng. Mặc dù dịch bệch và nạn đói thường trực, nhưng dân số của tiểu lục địa Ấn Độ, đã tăng từ 125 triệu vào năm 1750, lên 389 triệu vào năm 1941. Phong trào lớn đầu tiên chống lại sự thống trị khắc nghiệt của Công ty Đông Ấn Anh quốc là Khởi nghĩa Ấn Độ năm 1857, còn gọi là "Binh biến Ấn Độ" hay "Binh biến lính Ấn" hay "Chiến tranh Độc lập lần thứ nhất". Sau 1 năm lạc loạn, quân đội của Công ty Đông Ấn với sự hỗ trợ của quân đội Anh đã trấn áp được cuộc nổi dậy. Lãnh tụ trên danh nghĩa của cuộc nổi dậy, vị hoàng đế Môgôn cuối cùng Bahadur Shah Zafar, phải lưu vong ở Miến Điện, các con của ông bị chém đầu và dòng dõi Môgun chấm dứt. Ngay sau binh biến, toàn bộ quyền lực đã được chuyển từ tay Công ty Đông Ấn sang Nhà nước Anh. Nhà nước Anh cai trị hầu hết Ấn Độ làm thuộc địa; phần đất của Công ty Đông Ấn do công ty này trực tiếp kiểm soát và phần còn lại thông qua các tiểu vương Ấn Độ. Có khoảng 565 tiểu vương quốc ở tiểu lục địa Ấn Độ vào thời điểm người Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ vào tháng 8 năm 1947. Phong trào đấu tranh giành độc lập ở Ấn Độ Bước đầu tiên tiến tới độc lập và nền dân chủ kiểu phương Tây ở Ấn Độ là việc bổ nhiệm các ủy viên hội đồng người Ấn vào hội đồng tư vấn cho phó vương, và việc thành lập các hội đòng tỉnh có các thành viên là người Ấn tham gia rộng rãi vào các hội đồng lập pháp. Từ năm 1920 các nhà lãnh đạo như Mohandas Karamchand Gandhi đã bắt đầu tiến hành các phong trào rộng rãi chống lại British Raj. Subash Chandara Bose là một nhà đấu tranh vì tự do khác đã thành lập các lực lượng có vũ trang để chống lại nhà cầm quyền Anh. Bhagat Singh cũng là một nhà đấu tranh vì tự do, được xem là một trong những nhà cách mạng có ảnh hưởng nhất trong phong trào đấu tranh giành độc lập ở Ấn Độ. Ông thường được gọi là Shaheed Bhagat Singh (từ shaheed có nghĩa là "kẻ tử vì đạo"). Veerapandiya Kattabomman là một nhà đấu tranh vì tự do khác, người đã khởi xướng phong trào của mình chống lại nhà cầm quyền bằng cách chống sưu thuế. Các hoạt động cách mạng chống lại nhà cầm quyền Anh cũng nổ ra ở hầu khắp tiểu lục địa Ấn Độ, và những phong trào này đã giành lại được nền độc lập cho tiểu lục địa này vào năm 1947. Một năm sau, Gandhi bị ám sát. Nhưng, ông đã thành công trong việc giành lại độc lập cho tổ quốc mình. Độc lập và chia cắt Cùng với ước vọng độc lập, sự căng thẳng giữa người Hindu và người Hồi giáo cũng phát triển theo năm tháng. Người Hồi giáo luôn là nhóm người thiểu số, và triển vọng về một chính quyền của riêng người Hindu đã khiến họ lo ngại; họ không tin sự cai trị của người Hindu cũng chẳng kém gì sự cai trị của người Anh. Năm 1915, Mohandas Karamchand Gandhi đã thành công một cách kỳ lạ trong việc lãnh đạo sự đoàn kết giữa hai nhóm người để giành độc lập cho nước mình. Ảnh hưởng thế tục của Gandhi tới Ấn Độ và khả năng của ông trong việc giành độc lập thông qua một phong trào rộng rãi hoàn toàn không bạo lực đã làm cho ông trở thành một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất. Ví dụ, việc ông mặc trang phục vải thô dệt thủ công Khadi đã làm suy yếu ngành dệt của người Anh và ông đã hướng dẫn được đoàn tuần hành ra biển, nơi những người tuần hành tự làm ra muối để phản đối sự độc quyền của người Anh. Người Ấn Độ đã gọi ông là Mahatma, hay Linh hồn Vĩ đại. Người Anh đã phải cam kết rời khỏi Ấn Độ vào năm 1947. Các lãnh thổ Ấn Độ thuộc Anh đã giành được độc lập vào năm 1947, sau khi phân chia thành Liên bang Ấn Độ và Lãnh thổ tự trị Pakistan. Tiếp theo và trước khi có sự chia cắt các tỉnh Punjab và Bengal, bạo động giữa người Sikh, Hindu và Hồi giáo đã bùng nổ ở một vài nơi, bao gồm Punjab, Bengal và Delhi, làm 500.000 người thiệt mạng. Ngoài ra, vào thời kỳ này, người ta còn chứng kiến một trong những cuộc di cư ồ ạt nhất trong lịch sử hiện đại, với khoảng 12 triệu người Hindu, Sikh và Hồi giáo di chuyển giữa các quốc gia mới được thành lập là Ấn Độ và Pakistan. Một Ấn Độ mới Trong vòng một thập kỷ trở lại đây, ít có quốc gia nào thu hút nhiều sự chú ý của các học giả và cũng luôn là đề tài thảo luận như Ấn Độ, đặc biệt trong năm 2006 này. Ấn Độ được coi như một quốc gia với nhiều nghịch lý khác nhau. Đó là đất nước có cơ sở hạ tầng yếu kém với những sân bay cũ nát, đường sá thảm hại, những khu nhà ổ chuột ở khắp nơi và những ngôi làng nghèo khó. Đó cũng là đất nước vẫn còn tới hơn 300 triệu người sống với điều kiện cùng cực: dưới một đô la/ngày (chiếm tới 40% dân số nghèo của toàn thế giới) và là nước có số dân nhiễm HIV lớn thứ hai trên thế giới. Nhưng bên cạnh tất cả những yếu kém này, Ấn Độ dường như đang có thêm điều gì đó rất mới. Và điều này ai cũng có thể cảm nhận được khi đặt chân lên đất nước có số dân đông thứ hai trên thế giới. Nhiều doanh nhân phương Tây tới Ấn Độ bởi họ hy vọng nước này sẽ tiếp bước Trung Quốc trên con đường phát triển kinh tế. Nhưng liệu Ấn Độ có thể làm được điều này? Tăng trưởng của Trung Quốc là một sản phẩm đồng thời của tính hiệu quả và một chính quyền vững mạnh. Bắc Kinh khi đã quyết định đất nước này phải có thêm các sân bay mới, các xa lộ tám làn đường, các khu công nghiệp qui mô lớn thì chỉ trong vài tháng, họ có thể làm được những điều này. Trung Quốc luôn nhắm tới các tập đoàn xuyên quốc gia và tạo điều kiện về hành chính cực kỳ thông thoáng để những tập đoàn này có được giấy phép đầu tư chỉ trong vài ngày. Không chỉ được vận hành rất tốt, nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc của Trung Quốc trong những năm vừa qua có thể được coi là ví dụ thành công nhất từ trước tới nay trong lịch sử của loài người.  Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ vẫn còn khá hỗn độn và ít có tính định hướng. Nó không theo mô hình top-down (từ trên xuống) mà áp dụng mô hình ngược lại: bottom-up (từ dưới lên). Thú vị nhất là, điều này xảy ra không nằm trong mong muốn của chính phủ mà phần lớn từ sức ép ngoài chính phủ. Ấn Độ không có các cơ sở hạ tầng hoành tráng như ở Bắc Kinh hay Thượng Hải và chính phủ Ấn Độ cũng chưa hoàn toàn có chính sách trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng bù lại, nước này lại có một đội ngũ đông đảo các nhà doanh nghiệp luôn mong muốn làm giàu. Chính vì vậy, họ sẵn sàng tìm mọi con đường, vượt qua mọi khó khăn, cản trở, luồn lách qua các tệ nạn quan liêu để đạt được mục đích đó. "Ban đêm Chính phủ ngủ nhưng nền kinh tế thì vẫn tiếp tục tăng trưởng", Gurcharan Das, nguyên Giám đốc điều hành của Procter & Gamble tại Ấn Độ nói. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ vẫn còn khá hỗn độn và ít có tính định hướng. Nó không theo mô hình top-down (từ trên xuống) mà áp dụng mô hình ngược lại: bottom-up (từ dưới lên). Thú vị nhất là, điều này xảy ra không nằm trong mong muốn của chính phủ mà phần lớn từ sức ép ngoài chính phủ. Ấn Độ không có các cơ sở hạ tầng hoành tráng như ở Bắc Kinh hay Thượng Hải và chính phủ Ấn Độ cũng chưa hoàn toàn có chính sách trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng bù lại, nước này lại có một đội ngũ đông đảo các nhà doanh nghiệp luôn mong muốn làm giàu. Chính vì vậy, họ sẵn sàng tìm mọi con đường, vượt qua mọi khó khăn, cản trở, luồn lách qua các tệ nạn quan liêu để đạt được mục đích đó. "Ban đêm Chính phủ ngủ nhưng nền kinh tế thì vẫn tiếp tục tăng trưởng", Gurcharan Das, nguyên Giám đốc điều hành của Procter & Gamble tại Ấn Độ nói. Một số người có thể lập luận rằng con đường phát triển của Ấn Độ có một số lợi thế nhất định. Yasheng Huang, nhà nghiên cứu của Viện Công nghệ MIT (Massachussetts Institute of Technology) cho rằng các công ty Ấn Độ sử dụng vốn hiệu quả hơn các công ty của Trung Quốc. Họ cũng học các tiêu chuẩn thế giới nhanh hơn và quản lý các công ty hiệu quả hơn. Mặc dù còn nghèo hơn Trung Quốc, Ấn Độ cũng đã sản sinh được cả tá các công ty tầm cỡ thế giới như Infosys, Ranbaxy hay Reliance. Huang giải thích điều này vì trên thực tế, Ấn Độ thực sự có một khu vực kinh tế tư nhân hiệu quả hơn (không như các công ty có vốn nhà nước ở Trung Quốc), có một hệ thống tài chính hoạt động trôi chảy dựa trên các luật lệ đầy đủ và vững chắc. Nhật Bản có giải thưởng uy tín Deming cho các sáng tạo trong quản lý và suốt 4 năm qua, các công ty Ấn Độ luôn đoạt được giải thưởng này nhiều hơn bất cứ quốc gia nào khác, kể cả Nhật Bản. Hoạt động bottom-up ở Ấn Độ rất rõ ràng, không phải chỉ ở trong các doanh nghiệp. Người tiêu dùng Ấn Độ cũng  luôn sẵn sàng hành động. Phần lớn các câu chuyện thành công ở Châu Á đều gắn liền với việc chính phủ can thiệp để dân chúng thắt lưng buộc bụng, tạo tăng trưởng nhờ tích lũy tư bản và đưa ra các chính sách thân thiện với nền kinh tế thị trường. Tại Ấn Độ thì khác: cá nhân là vua. Những người trẻ tuổi Ấn Độ không hề ngần ngại dồn hết toàn bộ tiền bạc của mình để mua một ngôi nhà mà chẳng hề tính đến tới cuộc sống của những ngày sau đó. Họ thậm chí còn mua trả góp. Thị trường thẻ tín dụng ở Ấn Độ tăng trưởng tới 35% /năm. Tiêu thụ cá nhân đóng góp tới 67% vào GDP của Ấn Độ và còn số này lớn hơn nhiều so với Trung Quốc (42%) hay bất cứ nước Châu Á nào khác. Dường như điều này chỉ thấy có ở Mỹ, thiên đường của chủ nghĩa tiêu dùng với mức chi tiêu cá nhân lên tới 70%. Những con số thống kê có thể không hoàn toàn diễn tả được những gì đang diễn ra. Người Ấn Độ, ít nhất là những người ở khu vực thành thị đang vung tay tiêu xài. Còn các doanh nghiệp Ấn Độ thì dường như khá ảo tưởng về tương lai xán lạn của họ. Các nhà thiết kế và nghệ sĩ Ấn Độ đang nói về khả năng ảnh hưởng của họ ra toàn thế giới. Các ngôi sao Bollywood (Trung tâm điện ảnh của Ấn Độ) cũng muốn khán giả nước ngoài biết tới họ nhiều hơn bên cạnh cỡ nửa triệu người hâm mộ trong nước. Điều đang diễn ra hiện nay ở Ấn Độ là sự hình thành của một xã hội độc lập, náo nhiệt, đầy màu sắc, cởi mở, mạnh mẽ và trên tất cả là sẵn sàng thay đổi. Ấn Độ giờ đã khác xa với quá khứ và cả so với hầu hết các nước Châu Á. Đó không còn là một đất nước với nền kinh tế bình lặng, có kiểm soát, có độ mở chậm với đủ các kế hoạch... Nền dân chủ đã tiếp sức phát triển kinh tế cho dân chúng nước này. Là một trong những nước nghèo nhưng Ấn Độ đã duy trì được một chính phủ dân chủ trong vòng gần 60 năm qua. Và đây chắc chắn là sức mạnh lớn nhất của nước này khi so sánh với các quốc gia đang phát triển khác. Nhưng không phải trong lĩnh vực nào Ấn Độ cũng thành công. Trong các thập niên 1950 và  1960, Ấn Độ cố gắng hiện đại hóa đất nước bằng việc tạo ra một mô hình "hỗn hợp", giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Điều này dẫn tới các tình trạng trói buộc khu vực kinh tế tư nhân với quá nhiều qui định, dẫn tới sự thiếu hiệu quả và tham nhũng ở khu vực nhà nước. Kết quả đạt được rất nghèo nàn. Năm 1960, Ấn Độ có GDP đầu người lớn hơn Trung Quốc và bằng Hàn Quốc nhưng ngày nay GDP đầu người của Ấn Độ chưa bằng một nửa của Trung Quốc và chỉ bằng 1/13 của Hàn Quốc. Trong bảng xếp hạng về chỉ số phát triển của Liên hợp quốc (tính theo các tiêu chí như thu nhập, y tế, tỉ lệ mù chữ...), Ấn Độ xếp hạng 124/177 nước. Tỉ lệ 54% mù chữ ở nữ giới Ấn Độ cao một cách đáng ngạc nhiên và dường như chính phủ Ấn Độ cũng chưa làm được gì nhiều để cải thiện điều này. Những kỳ vọng ở một chính phủ mạnh  Chính phủ hiện nay của Ấn Độ do Manmohan Singh, vốn là cựu Bộ trưởng Tài chính đứng đầu, đã giúp nước này phát triển mạnh kinh tế trong nước kể từ năm 1991. Sonia Gandhi, thủ lĩnh của đảng đối lập sau khi giành được đa số phiếu đã chọn Singh làm Thủ tướng. Trước đó, Singh, một tiến sĩ tốt nghiệp từ Đại học Oxford, cũng từng giữ nhiều trọng trách khác trong chính phủ như Thống đốc Ngân hàng nhà nước, Bộ trưởng Kế hoạch và Bộ trưởng Tài chính. Đất nước Ấn Độ vốn bị chao đảo bởi tham nhũng đã trở lại bình yên dưới bàn tay điều khiển của một con người cực kỳ thông minh, toàn tâm toàn ý trong công việc và đặc biệt là có rất nhiều kinh nghiệm. Đã từ khá lâu, kể từ thời của Thủ tướng Nehru, người ta mới tìm thấy một vị thủ tướng hội tụ đồng thời các phẩm chất đáng quí như vậy. Tuy nhiên, Singh cũng đã làm nhiều người yêu mến ông cảm thấy thất vọng. Không ít người hy vọng ông sẽ đưa ra hàng loạt cải cách lớn trên diện rộng nhưng trên thực tế, chính phủ tỏ ra quá thận trọng. Singh đứng đầu một chính phủ liên minh lỏng lẻo, không có cam kết mạnh mẽ để cải cách kinh tế. Bản thân Singh cũng không phải là một nhà chính trị cứng rắn và quyền lực mà phụ thuộc khá nhiều vào bà Gandhi. Các quyết tâm thầm lặng của ông nhằm đẩy các chính sách kinh tế, chính trị và ngoại giao lên dường như ít được chú ý và công nhận. Các bộ trưởng kinh tế của ông hầu hết thuộc phái cải cách nhưng họ lại làm việc trong các điều kiện bị ràng buộc. Chính vì vậy, những bước tiến kinh tế dường như khá chậm chạp. Thí dụ như cơ sở hạ tầng của Ấn Độ chỉ được cải thiện dần dần và trong tương lai, các công ty tư nhân mới được bắt tay với các công ty nhà nước để tham gia vào thị trường này. Hai sân bay quan trọng nhất của Ấn Độ sẽ được tư nhân hóa và tất nhiên sẽ được cải thiện từng tí một. Tuy nhiên, người ta cũng chứng kiến sự ra đời của hàng loạt các qui định mới nhằm loại bỏ các thủ tục phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp giấy phép kinh doanh. Một đất nước khá đa dạng và phức tạp về sắc tộc với 17 ngôn ngữ chính, 22.000 phương ngữ và có đủ các tôn giáo trên thế giới không thể được điều hành theo một cách thông thường. Chính phủ nước này mới đây đã bắt đầu đầu tư vào giáo dục nông thôn và sức khỏe, đồng thời tập trung sức lực để tăng năng suất nông nghiệp. Một thay đổi khác là kể từ năm 1993, dân chủ đã được mở rộng hơn để dân chúng ở làng quê có nhiều tiếng nói hơn đối với các chính sách liên quan tới họ. Điều quan trọng nhất là 33% số ghế của các hội đồng khu vực nông thôn được dành cho phụ nữ. Như vậy, tính trên cả nước sẽ có khoảng 1 triệu phụ nữ có chân trong các hội đồng khu vực nông thôn. Họ sẽ là các tác nhân để tạo ra một nền giáo dục và chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Do vậy, đây cũng là bằng chứng cho hình thức phát triển theo hướng từ dưới lên. Nói một cách khác nghĩa là hình thức xã hội thúc đẩy nhà nước. Người ta có cảm nhận rằng hầu hết giới lãnh đạo của Ấn Độ ngày nay không còn tương thích với một xã hội mở hiện đại, với một xã hội thương mại đang lớn lên từng ngày.  Tuy nhiên, vai trò của nhà nước vẫn còn rất lớn. Hãy thử nhìn vào các công ty tư nhân, yếu tố chính làm nên thành công của đất nước Ấn Độ ngày nay. Chúng sở dĩ phát triển và nảy nở nhanh chóng là nhờ việc nhà nước hình thành và tạo ra các thị trường chứng khoán và hệ thống tài chính với các qui định rõ ràng, minh bạch và chắc chắn. Lĩnh vực viễn thông đang bùng nổ ở đất nước cũng là nhờ nhà nước đã đưa ra các qui định vừa thông thoáng nhưng cũng khá chặt chẽ. Thêm nữa, các viện công nghệ của Ấn Độ hiện có thứ hạng tốt nhất trên thế giới đều do nhà nước quản lý. Nhưng đó không phải là tất cả. Khu vực tư nhân không thể giải quyết các vấn nạn lớn như dịch bệnh Aids, tình trạng giáo dục yếu kém hay các vấn đề môi trường. Nếu cách quản lý vĩ mô không được thay đổi, đất nước này sẽ khó có thể đạt được phát triển theo đúng tiềm năng của nó. Nghịch lý lớn nhất của Ấn Độ ngày nay là trong khi xã hội nước này đang cởi mở, tự tin và sẵn sàng hội nhập với thế giới thì nhà nước, cụ thể là giới lãnh đạo dường như vẫn còn do dự, cẩn trọng và nghi ngờ trước các thay đổi. Áp lực xã hội dường như mạnh hơn các chính sách của nhà nước. Vấn đề quan trọng là Ấn Độ phải đặt ra các nhiệm vụ lớn lao nhằm xác định con đường phát triển phù hợp trong điều kiện của một Thế giới Mới. Quan hệ của Ấn Độ với các cường quốc khác Cộng đồng kiều dân Ấn Độ ở Mỹ từng là cầu nối cho hai nền văn hóa khá khác biệt Ấn-Mỹ. Người Ấn ở nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp quê hương mình hướng ngoại và mở cửa ra bên ngoài. Họ đem vốn, các ý tưởng đầu tư, các tiêu chuẩn quốc tế và quan trọng  nhất là niềm tin thành công từ nước ngoài về nước. Một chính khách Ấn Độ từng đặt một câu hỏi vớ
Luận văn liên quan