Cách đây hơn 60 năm (1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Phải làm sao
cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham
nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho nhân dân có tinh thần vì
nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi
người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình
và biết hưởng hạnh phúc của mình nên hưởng" (Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính tr ị
quốc gia, Hà Nội, 2003). Ngay sau ngày quốc khánh 02-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thành lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc Bộ. Ngày 07-9-1945 Bác tiếp các đại biểu của Ủy
ban này và Người chỉ rõ: "Bổn phận các Ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu tranh cho
độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới"(Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003). Như vậy, có thể khẳng định văn hóa có một vai trò rất lớn, nó vừa là
môi trường,vừa là công cụ để tác động đến hành vi của cá nhân và tổ chức.
Văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực vô hạn thúc đẩy
sự phát triển sản xuất hàng hóa và nhờ hàng hóa để phát triển, là mục tiêu cao cả của mọi
hình thái xã hội. Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy
nhân tố con người xây dựng xã hội mới và con người mới trong tất cả các lĩnh vực hoạt
động sản xuất - kinh doanh, hoạt động chính trị, hoạt động khoa học - công nghệ, hoạt
động văn hóa - xã hội - nhân văn, vv. Trong thời đại ngày nay kinh tế thị trường, kinh tế
tri thức, toàn cầu hóa và cách mạng quản lý ngày càng phát triển như vũ bão, các quốc gia
xích lại gần nhau hơn, vì thế văn hóa dân tộc, bản sắc dân tộc ngày càng trở thành trung
tâm của mọi sự chú ý.
Văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân được hình thành trên nền tảng văn hóa
dân tộc và là bộ phận cấu thành, tô đậm thêm bản sắc văn hóa dân tộc, không thể đối lập
với bản sắc văn hóa dân tộc.
143 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2138 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Văn hóa kinh doanh của công ty cổ phần dịch vụ vận tải traco trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Văn hóa kinh doanh của Công ty Cổ phần
dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách đây hơn 60 năm (1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Phải làm sao
cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham
nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho nhân dân có tinh thần vì
nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi
người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình
và biết hưởng hạnh phúc của mình nên hưởng" (Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003). Ngay sau ngày quốc khánh 02-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thành lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc Bộ. Ngày 07-9-1945 Bác tiếp các đại biểu của Ủy
ban này và Người chỉ rõ: "Bổn phận các Ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu tranh cho
độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới"(Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003). Như vậy, có thể khẳng định văn hóa có một vai trò rất lớn, nó vừa là
môi trường,vừa là công cụ để tác động đến hành vi của cá nhân và tổ chức.
Văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực vô hạn thúc đẩy
sự phát triển sản xuất hàng hóa và nhờ hàng hóa để phát triển, là mục tiêu cao cả của mọi
hình thái xã hội. Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy
nhân tố con người xây dựng xã hội mới và con người mới trong tất cả các lĩnh vực hoạt
động sản xuất - kinh doanh, hoạt động chính trị, hoạt động khoa học - công nghệ, hoạt
động văn hóa - xã hội - nhân văn, vv... Trong thời đại ngày nay kinh tế thị trường, kinh tế
tri thức, toàn cầu hóa và cách mạng quản lý ngày càng phát triển như vũ bão, các quốc gia
xích lại gần nhau hơn, vì thế văn hóa dân tộc, bản sắc dân tộc ngày càng trở thành trung
tâm của mọi sự chú ý.
Văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân được hình thành trên nền tảng văn hóa
dân tộc và là bộ phận cấu thành, tô đậm thêm bản sắc văn hóa dân tộc, không thể đối lập
với bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, với sự di chuyển dễ dàng các
nguồn tài chính, nguyên liệu và công nghệ từ quốc gia này sang quốc gia khác, việc du nhập
các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nói chung và thành tựu tiên tiến của khoa học quản
trị nói riêng không khó. Tuy nhiên, yếu tố chính ảnh hưởng đến sự thành bại trong việc áp
dụng thành công các thành tựu đó trong những điều kiện cụ thể của các quốc gia là sự khác
biệt về văn hóa. Đối với lĩnh vực kinh doanh, xu hướng văn hóa hóa kinh doanh đang là
một hướng đi tối ưu để tận dụng các thành tựu tiên tiến của khoa học đồng thời vẫn phát
huy được sức mạnh của bản sắc văn hóa.
Chính vì vậy, xây dựng văn hóa kinh doanh là góp phần tạo lập năng lực cốt lõi
của doanh nghiệp, và do vậy, tạo cho doanh nghiệp năng lực cạnh tranh bền vững trong
điều kiện cạnh tranh mang tính toàn cầu. Bên cạnh đó, nó còn góp phần thể hiện bản sắc
văn hóa tiên tiến đậm đà tính dân tộc của văn hóa Việt Nam trong lĩnh vực quản trị doanh
nghiệp.
Với nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa kinh doanh đối với sự phát
triển của doanh nghiệp, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Văn hóa kinh doanh của Công ty Cổ
phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế" làm đề tài luận văn
Thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề xuất những giải pháp, kiến nghị cơ bản để hoàn thiện văn hóa kinh doanh của
Công ty Cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa kinh doanh của Công ty cổ phần dịch vụ
vận tải TRACO
- Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp, kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện văn
hóa kinh doanh của Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp,
các yếu tố cấu thành văn hóa kinh doanh, việc xây dựng văn hóa kinh doanh, những ảnh
hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng văn hóa kinh doanh.
- Phạm vi nghiên cứu: Được xác định trong khuôn khổ của Công ty cổ phần dịch
vụ vận tải TRACO gắn với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian khảo sát được
tiến hành trong giai đoạn 2002-2006.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
Thứ nhất: phương pháp duy vật biện chứng
Thứ hai: phương pháp phỏng vấn. Phương pháp này được sử dụng để trực tiếp
phỏng vấn một số nhà lãnh đạo và CBNV trong công ty.
Thứ ba: phương pháp điều tra thông qua bảng câu hỏi
Dựa trên kết quả khảo sát sơ bộ tác giả luận văn đã xây dựng bản câu hỏi điều tra
tình hình thực tế văn hóa kinh doanh tại Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong
giai đoạn hiện nay (Những nội dung chi tiết cụ thể của bảng câu hỏi được đính kèm trong
phụ lục).
Với 100 bảng câu hỏi được gửi tới các nhà quản trị và CBNV của công ty cổ phần
dịch vụ vận tải TRACO, tác giả luận văn đã nhận được 68 câu trả lời. Các câu trả lời này
được phân bố tương đối rộng khắp các phòng ban và bộ phận trong công ty, trong đó bao
gồm cả các nhà quản trị và các CBNV.
Thứ tư: phương pháp sử dụng nguồn thông tin thứ cấp
Với phương pháp này, tác giả luận văn đã có được một số kết quả và nhận định về
văn hóa kinh doanh tại Công ty cổ phần dịch vụ vận tải TRACO trong giai đoạn hiện nay
thông qua việc thu thập các thông tin từ các sách, báo và tạp chí chuyên ngành như.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng văn hóa kinh doanh của Công ty cổ phần dịch vụ vận tải
TRACO trong thời gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện văn hóa kinh doanh của Công ty cổ
phần dịch vụ vận tải TRACO trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA KINH DOANH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1.Khái niệm văn hóa
Nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển nói chung và đối với doanh
nghiệp nói riêng trước hết phải có một khái niệm chính xác và nhất quán về văn hóa cũng
như cấu trúc của nó. Văn hóa là một khái niệm rất rộng, đến mức hầu như mỗi nhà văn hóa
đều có một khái niệm riêng về văn hóa. Cho đến nay có khoảng hơn 400 khái niệm về văn
hóa. Các khái niệm đó không giống nhau tùy theo cách hiểu rộng hẹp khác nhau, trong khi
văn hóa là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, phong phú và phức tạp. Mặt khác, cũng như các lĩnh
vực khoa học xã hội khác, ngành khoa học về văn hóa có tính chất lịch sử và phát triển
xuyên suốt lịch sử loài người, từ văn hóa dân gian có văn tự và không văn tự đến văn hóa
chỉnh thể của các chế độ đương thời. Trong quá trình lịch sử đó nội dung và khái niệm của
văn hóa cũng thay đổi theo. Đó là hiện thực khách quan. Sau đây là một số trong những
khái niệm đó.
Theo E.Heriôt: "Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi - đó chính là
văn hóa". (Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB văn học, Hà Nội)
Theo Unessco: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi
mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng
như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ
thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống, và dựa trên đó, từng dân tộc đã khẳng
định bản sắc riêng của nước mình" (Văn hóa và văn hóa doanh nghiệp, NXB lao động, Hà
Nội, 2001)
Edward B. Taylor (1924) cho rằng: "Văn hóa là một phức thể bao gồm kiến thức,
niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, tập quán và tất cả những khả năng và tập tục khác cần thiết
cho con người trong một xã hội".
GS Hoàng Vinh trong " Đề cương văn hóa và Tôn giáo" đã khẳng định văn hóa là
vốn hiểu biết của con người, tích lũy được trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn - lịch
sử, được kết tinh lại thành các giá trị và chuẩn mực xã hội, gọi chung là hệ giá trị xã hội,
biểu hiện ở vốn di sản văn hóa và phong cách ứng xử của cộng đồng. Hệ giá trị là thành tố
cơ bản làm nên bản sắc riêng của mọi cộng đồng xã hội, có khả năng liên kết các thành
viên làm cho cộng đồng trở thành một khối vững chắc và có khả năng điều tiết hoạt động
của các thành viên sống trong cộng đồng xã hội ấy.
Trong bản thảo "Nhật ký trong tù" năm 1943, Bác Hồ đã khẳng định "Văn hóa là
sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt, cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" (Hồ Chí Minh,
toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 3, trang 431). Bác chỉ rõ nội hàm của
văn hóa, đồng thời, Bác phân tích và luôn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn
hóa và cơ sở hạ tầng, văn hóa và kinh tế, chính trị, xã hội. Văn hóa là kiến trúc thượng
tầng; nhưng khi cơ sở hạ tầng của xã hội kiến thiết rồi, lúc đó văn hóa mới đủ điều kiện
phát triển được. Văn hóa là động lực của phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Văn hóa phải
soi đường cho mọi người tiến tới.
Cựu Tổng giám đốc UNESSCO Federico Mayor nói: "Thực tế đã thừa nhận rằng
văn hóa không tách rời cuộc sống, ngoài sự tư duy và hoạt động của mỗi cá nhân và cộng
đồng, bởi văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc
sống đã diễn ra trong quá khứ và hiện tại; trải qua bao thế kỷ nó đã cấu thành hệ thống giá
trị, truyền thống, mỹ thuật và lối sống, mà dựa trên đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình". Như vậy, có thể thấy văn hóa bao hàm cả nội dung rộng lớn và phức tạp,
văn hóa về cơ bản là một cấu trúc nhiều tầng nấc. (xem hình 1.1).
B¶N
B¶n s¾c v¨n
ho¸
øng S¾c
B¶n s¾c VH
(quèc gia)
1.1.1.2. Khái niệm văn hóa kinh doanh
Văn hóa kinh doanh được thể hiện và chỉ có thể được thể hiện thông qua vật mang
nó là doanh nghiệp. Nhưng để có một định nghĩa mạch lạc cho thuật ngữ văn hóa kinh doanh
hầu như đã không dễ dàng, bởi lẽ về ngữ nghĩa thì ngay như khái niệm "văn hóa" cũng đã có
hàng trăm cách diễn đạt khác nhau đã trình bày trên. Marvin Bower, Tổng giám đốc
Mackinsey Company cho rằng: "Văn hóa kinh doanh là tất cả các thành tố mà chúng ta đang
thực hiện trong quá trình kinh doanh và di sản để lại cho thế hệ kế tiếp". Như vậy, văn hóa
hiện diện ở bất kỳ doanh nghiệp nào, tuy nhiên một doanh nghiệp phát triển phải có một
nhãn quan rộng, tham vọng lâu dài, xây dựng được một nếp văn hóa có bản sắc riêng, thể
hiện sự khác biệt vượt trội.
Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào hoạt động kinh
doanh, là cái mà các chủ thể kinh doanh áp dụng hoặc tạo ra trong quá trình hình thành nên
những nền tảng có tính ổn định và đặc thù trong hoạt động kinh doanh của họ. Văn hóa
kinh doanh là tất cả các giá trị tinh thần (dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể) có được của
một doanh nghiệp trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
ấy - đã trở thành chuẩn mực và nguồn động lực chủ yếu nhất - thâm nhập vào và chi phối
các quan niệm, tập quán và hành vi kinh doanh hướng về sự chất lượng, sáng tạo, trách
nhiệm và kết hợp hài hòa các lợi ích. Văn hóa kinh doanh liên kết con người trong nội bộ
với nhau, liên kết doanh nghiệp và xã hội bằng những giá trị nhân văn, đặt con người vào
vị trí trung tâm và quyết định sự cạnh tranh thắng lợi và phát triển bền vững. Văn hóa kinh
doanh suy cho cùng nó là cốt lõi của nền kinh tế tri thức / thị trường xã hội và nhân văn.
Vấn đề văn hóa kinh doanh đối với Việt Nam không có gì mới, ông cha chúng ta
đã đề cập từ lâu. Chàng rể vua Hùng- Mai An Tiêm bị đày ra hoang đảo đã trồng dưa hấu,
dưa hấu chín, đã khắc tên mình lên quả dưa hấu có ghi địa chỉ, rồi thả xuống biển, sóng
đưa dưa hấu vào đất liền vừa để "tiếp thị" gọi mời thương lái đến mua. Di tích cổ Hoa Lư
thời nhà Đinh (968- 979) có nhiều viên gạch lớn khắc dòng chữ "Đại Việt quốc quân thành
chuyên", phải chăng đây là thương hiệu. Chiếc lọ gốm vẽ hoa dây màu lam hiện đang
trưng bày tại bảo tàng Topkapt Saray, ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ có dòng chữ ghi rõ niên đại
sản xuất "Năm Đại hóa thứ 8" tức 1450 thời vua Lê Nhân Tông (1443- 1459), địa điểm sản
xuất Nam Sách, Hải Dương, người sản xuất ghi: "Bùi thị hỉ bút" là người họ Bùi vẽ chơi.
Hiệu chụp ảnh đầu tiên ở Hà Nội "Cảm Hiếu Đường" vào năm 1869, chủ hiệu là Đặng
Huy Trứ, v.v... Cuộc canh tân đất nước đầu thế kỷ XX (1903) sự khởi đầu là sự kết hợp hai
mục đích giáo dục và kinh doanh tìm ra nguồn lực cứu nước. Cụ cử Lương Văn Can
(1854- 1927) hiệu trưởng trường Đông Kinh Nghĩa Thục, người đã sớm truyền bá tư tưởng
"đạo làm giàu", cùng với gia đình thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu, bị đày ải sang
Nam Vang (Phnom Pênh- Campuchia). Cụ viết sách "Thương học phương châm" có đoạn
"Đương buổi thế giới cạnh tranh này, các nước phú cường không đâu là chẳng đua tài thi
sức ở trong trường thương chiến, văn minh tiến bộ, buôn bán càng thịnh đạt. Việc buôn
bán thịnh suy có quan hệ đến quốc dân thịnh suy như thế, ta há coi thường, xem khinh
được sao?". Nền kinh doanh ở nước ta còn là thảm cảnh bởi 10 lẽ như cụ Cử Lương Văn
Can tổng kết: "1- Người mình không có thương phẩm; 2- Không có thương hội; 3- Không
có tín thực; 4- Không có kiên tâm; 5- Không có nghị lực; 6- Không biết trọng nghề; 7-
Không có thương học; 8- Kém đường giao tiếp; 9- Không biết tiết kiệm; 10- Khinh nội
hóa!"
Từ các phân tích trên đây, có thể đi đến xác lập một khái niệm chung về văn hóa
kinh doanh, đó là: "Văn hóa kinh doanh là toàn bộ các nhân tố văn hóa được chủ thể
kinh doanh chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh tạo nên
bản sắc kinh doanh của chủ thể đó"
Theo nghĩa cụ thể, văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào
trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra
trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù. Như
vậy văn hóa kinh doanh là một phương diện của văn hóa trong xã hội bao gồm toàn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần, những phương thức và kết quả hoạt động của con người
được tạo ra và sử dụng trong quá trình kinh doanh.
1.1.2. Tầm quan trọng của văn hóa kinh doanh đối với hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp
1.1.2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Ngày nay, cạnh tranh giữa các nước, các doanh nghiệp và sức mạnh kinh tế thực ra
là một hình thức của công cuộc cạnh tranh về chất lượng khoa học và công nghệ. Kinh
doanh là cạnh tranh, là đọ sức với các đối thủ trong nước và thế giới để mua hàng và bán
hàng. Về bản chất cạnh tranh là cuộc chiến trên thương trường không chút khoan nhượng.
Cạnh tranh mang những sắc thái cơ bản và nguyên tắc cơ bản của chiến tranh. Sự thỏa hiệp
với các đối thủ (đối tác) có thể là sách lược trong những tình huống cụ thể với khoảng
không gian và thời gian nhất định để đôi bên cùng có lợi. Điều đó không thể che giấu hết
tính quyết liệt, sống còn trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và triết lý kinh
doanh bằng cách vượt lên. Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp là nét đặc trưng cơ bản của
văn hóa kinh doanh.
Văn hóa kinh doanh có tác động quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy bởi vì để thực hiện hoạt động kinh doanh, doanh
nghiệp nào cũng cần có các nguồn lực vật chất và tinh thần. Trong đó nguồn lực tinh thần,
đặc biệt văn hóa kinh doanh chính là một trong trụ cột chính của các yếu tố cấu thành năng
lực cạnh tranh.
Năng lực của các nhà quản trị có tính quyết định đối với sự thành bại của doanh
nghiệp trong kinh doanh. Một nhà quản trị giỏi có thể xây dựng được yếu tố văn hóa kinh
doanh làm cơ sở vững chắc cho quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Qua khảo sát
các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả có thể rút ra hệ quả là: doanh nghiệp mạnh gắn
liền với giám đốc giỏi. Lãnh đạo một số địa phương và Bộ, Ngành cũng cho rằng, tìm sản
phẩm kinh doanh không khó, cái khó chính là tìm giám đốc doanh nghiệp giỏi. Một giám
đốc - nhà quản trị giỏi có thể đưa một doanh nghiệp từ thua lỗ đến chỗ có lợi nhuận, từ yếu
trở nên mạnh, trong khi việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ hoặc tái cấu trúc lại khó có thể
đưa lại một kết quả khả quan như vậy. Đặc biệt, trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay cả
hai giải pháp sau đều rất khó thực hiện bởi cả lý do kinh tế lẫn xã hội. Các nhà quản trị
giỏi sẽ biết cách tạo lập chiến lược cạnh tranh, phát huy năng lực sáng tạo của kỹ sư và
công nhân để tạo ra bí quyết công nghệ, thu hút nhân lực giỏi về cộng tác, sử dụng đúng
người, liên kết mọi người. Trước đây, trong điều kiện và hoàn cảnh còn khó khăn hơn các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc đã biết rút ngắn
khoảng cách về năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp Hoa Kỳ và Châu Âu bằng con
đường tự tìm ra cách thức quản trị riêng, phù hợp với văn hóa con người của họ, biến sở
đoản của đội ngũ nhân lực thành sở trường. Bản sắc văn hóa quản trị Nhật Bản đã từng là
vũ khí cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp Nhật Bản với các đối thủ trên trường quốc
tế.
Văn hóa kinh doanh được biểu hiện thông qua năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp không có năng lực canh tranh đồng nghĩa với doanh nghiệp đó
không có văn hóa kinh doanh. Trong thời đại ngày nay không thể chỉ đứng lại trên văn hóa
truyền thống qua các tấm huân, huy chương các loại của bề dày lịch sử trong cơ chế cũ mà
không bao hàm được văn hóa chung của dân tộc Việt Nam theo dòng lịch sử từ xa xưa,
văn hóa chung của nhân loại và xu hưởng phát triển trong tương lai. Lúc này, khó tồn tại
"mẹ hát, con khen" mà phải tự thấy mình "trong nhà nhất mẹ nhì con, ra đường lắm kẻ đẹp
giòn hơn ta", phải tự lăn mình vào cuộc sống thế giới, thực sự cọ xát với thương trường
khu vực và thế giới.
1.1.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động và sự phát triển bền vững của DN
Xây dựng văn hóa kinh doanh có vai trò rất to lớn trong việc nâng cao hiệu quả
hoạt động và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Cụ thể, vai trò quan trọng đó được
thể hiện trên 5 phương diện sau:
Thứ nhất, văn hóa kinh doanh tạo ra sự cố kết và tính thống nhất cao trong hành
động của các thành viên trong doanh nghiệp bằng một hệ thống các giá trị và chuẩn mực
chung. Mọi người sẽ cùng nhau hướng tới mục tiêu chung của doanh nghiệp bằng niềm
tin, sự tự nguyện và phối hợp hành động nhịp nhàng.
Các thành viên trong doanh nghiệp là sự tập hợp của nhiều cá nhân với những
nhân cách, cá tính, động cơ và mục tiêu khác nhau. Tính thống nhất, đồng tâm hiệp lực của
các thành viên chỉ có được khi họ cùng nhau chấp nhận và chia sẻ những giá trị và chuẩn
mực chung. Một doanh nghiệp đã xây dựng được văn hóa kinh doanh mạnh thì tự nó sẽ
giúp các thành viên hành động một cách tự nguyện, đúng hướng và có hiệu quả mà không
cần có quá nhiều quy chế và mệnh lệnh hành chính từ cấp trên.
Thứ hai, văn hóa kinh doanh tạo cho doanh nghiệp một phong cách, cá tính hay
bản sắc riêng, để phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Văn hóa kinh doanh
được duy trì bảo tồn qua nhiều thế hệ quản trị, tạo ra khả năng phát triển bền vững của
doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp trong thời gian đầu khởi sự chưa thể có ngay được văn hóa kinh
doanh. Qua quá trình hoạt động, các yếu tố của văn hóa kinh doanh sẽ được tạo lập, thử
thách để rồi tồn tại trong chủ đích của người chủ doanh nghiệp, tạo ra cho doanh nghiệp
một ấn tượng, hình ảnh và bản sắc riêng. Văn hóa kinh doanh vì vậy góp phần tạo dựng
một hình