Với bản chất là một quan hệ tài sản,quan hệ thừa kế dưới tác động của nền kinh tế thị trường cũng trở nên phong phú và phổ biến trong các giao lưu dân sự. Chính vì vậy chế định thừa kế có vị trí quan trọng và thực sự cần thiết trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam. Điều này được minh chứng từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay luôn bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân, được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992. Từ đó đến nay, quy định pháp luật về thừa kế nước ta không ngừng hoàn thiện và mở rộng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc giải quyết các tranh chấp trên thực tế ngày càng hiệu quả hơn.
Chế định thừa kế ở nước ta hiện nay được quy định khá đầy đủ trong bộ luật dân sự nhưng chưa thể dự liệu hết được những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tiễn số lượng các vụ án tồn đọng chưa được giải quyết trên phạm vi toàn quốc hàng năm tăng cao. Trong đó có những tranh chấp kéo dài, số vụ việc tranh chấp về thừa kế luôn chiếm tỷ lệ lớn trong các tranh chấp dân sự và có tính phức tạp. Sở dĩ còn tồn tại những bất cập như pháp luật thừa kế và những quy định pháp luật khác có liên quan đến thừa kế chưa thật sự đồng bộ thống nhất. Ngoài ra có những sai sót của tòa án xảy ra trong việc xác định người thừa kế theo pháp luật đã gây ảnh hưởng nhất định tới quan hệ thừa kế đôi khi còn xâm phạm đến quyền thừa kế theo pháp luật của công dân. Với tính cấp thiết như vậy, sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định về quyền thừa kế mà cụ thể là hàng thừa kế có ý nghĩa sâu sắc trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó em đã chọn đề tài số 21 “Về hàng thừa kế qui định tại điều 676 BLDS- một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Để tập trung đi sâu phân tích những quy định của pháp luật về hàng thừa kế hiện hành.
21 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2698 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Về hàng thừa kế qui định tại điều 676 bộ luật dân sự- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Với bản chất là một quan hệ tài sản,quan hệ thừa kế dưới tác động của nền kinh tế thị trường cũng trở nên phong phú và phổ biến trong các giao lưu dân sự. Chính vì vậy chế định thừa kế có vị trí quan trọng và thực sự cần thiết trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam. Điều này được minh chứng từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay luôn bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân, được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992. Từ đó đến nay, quy định pháp luật về thừa kế nước ta không ngừng hoàn thiện và mở rộng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc giải quyết các tranh chấp trên thực tế ngày càng hiệu quả hơn.
Chế định thừa kế ở nước ta hiện nay được quy định khá đầy đủ trong bộ luật dân sự nhưng chưa thể dự liệu hết được những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tiễn số lượng các vụ án tồn đọng chưa được giải quyết trên phạm vi toàn quốc hàng năm tăng cao. Trong đó có những tranh chấp kéo dài, số vụ việc tranh chấp về thừa kế luôn chiếm tỷ lệ lớn trong các tranh chấp dân sự và có tính phức tạp. Sở dĩ còn tồn tại những bất cập như pháp luật thừa kế và những quy định pháp luật khác có liên quan đến thừa kế chưa thật sự đồng bộ thống nhất. Ngoài ra có những sai sót của tòa án xảy ra trong việc xác định người thừa kế theo pháp luật…đã gây ảnh hưởng nhất định tới quan hệ thừa kế đôi khi còn xâm phạm đến quyền thừa kế theo pháp luật của công dân. Với tính cấp thiết như vậy, sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định về quyền thừa kế mà cụ thể là hàng thừa kế có ý nghĩa sâu sắc trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó em đã chọn đề tài số 21 “Về hàng thừa kế qui định tại điều 676 BLDS- một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Để tập trung đi sâu phân tích những quy định của pháp luật về hàng thừa kế hiện hành.
I. Một số vấn đề lí luận về thừa kế
1. Các quan niệm về thừa kế
Là một thực thể trong xã hội, con người không thể tồn tại và phát triển nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất định. Nói chách khác, con người không thể sống khi không có tài sản để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu. Nếu tư liệu tiêu dùng là phương tiện sinh hoạt, tư liệu sản xuất là phương tiện để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh thì tài sản nói chung là phương tiện sống của con người. Khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thỏa mãn cho nhu cầu của mình. Khi chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyển cho người còn sống. Quá trình dịch chuyển đó được gọi là thừa kế.
Nhìn một cách tổng quát nhất thì thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống. Về mặt ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa hưởng một cách kế tục. Theo phương diện này, từ điển tiếng Việt đã định nghĩa “ Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”. Về mặt nội dung thì thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản từ người chết cho người còn sống.
Quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống được hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩ nhiên, khi chưa có nhà nước và pháp luật, nó được thục hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế. Khi nhà nước xuất hiện, bằng pháp luật nhà nước tác động đến quá trình di chuyển tài sản như trên. Trong đó quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các nói trên. Trong đó, quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật nên từ đó quá trình dịch chuyển di sản được gọi là quyền thừa kế.
Nói cách khác khái niệm quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý mà nội dung của nó là xác định phạm vi các quyền, các nghĩa vụ của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế. quyền thừa kế chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có nhà nước. Bên cạnh nội dung kinh tế quyền thừa kế còn bao hàm ý chí của nhà nước. Nghĩa là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người con sống phải hoàn toàn tuân thủ sự quy định của pháp luật.
2. Thừa kế theo pháp luật
Điều 675 bộ luật dân sự năm 2005 quy định : “ Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định” Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau:
1.Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a. không có di chúc
b. Di chúc không hợp pháp
c. Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thười điểm mở thừa kế;
d. Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a. Phần di sản không được định đoạt trong di chúc
b. Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật
c. Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
II. Hàng thừa kế theo điều 676 bộ luật dân sự.
Căn cứ xác lập thừa kế
Căn cứ vào mối quan hệ giữa người để lại di sản với người khác, Điều 676 bộ luật dân sự năm 2005 đã xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật theo mối quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ huyết thông.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa vợ chồng được xác nhận thông qua việc kết hôn hợp pháp hay trong trường hợp kết hôn thực tế được pháp luật công nhận
Quan hệ nuôi dưỡng được xác lập thông qua việc nhận con nuôi, việc nuôi con nuôi phải được dăng ký và làm thủ tục tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về hộ tịch
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ (cụ, ông, bà, cha đẻ, mẹ đẻ và các con của người chết) hoặc bàng hệ ( anh ruôt, chị ruột của người chết, cháu của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột) được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ.
Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định thông qua các mối quan hệ nói trên được quyết định thành từng hàng thừa kế theo trật tự: Người nào có quan hệ gần gũi hơn với người chết sẽ đứng ở hàng thừa kế trước. Vì vậy bộ luật dân sự đã chia hàng thừa kế thành 3 hàng sau:
Điều 676 bộ luật dân sự quy định:
1.Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột,cậu ruột, cô ruột,dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.
=>Như vậy theo điều 676 bộ luật dân sự thì thừa kế được chia làm ba hàng:
Về hàng thừa kế thứ nhất: Điểm a khoản 1 điều 676 bộ luật dân sự năm 2005 quy định hàng thừa kế thứ nhất bao gồm “ vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”
Ở hàng thừa kế thứ nhất những người thuộc bề trên bao gồm ông, bà; ngang bậc: vợ, chồng và bề dưới: các con. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất này có nghĩa vụ chăm sóc , nuôi dưỡng nhau và là đại diện đương nhiên của nhau theo bộ luật dân sự năm 2005 và luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Nếu họ vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật hôn nhân và gia đình và bộ luật dân sự thì họ bị tước quyền thừa kế theo khoản 1 điều 643 bộ luật dân sự năm 2005.
Khác với pháp luật thức định, pháp luật thời phong kiến quy định hàng thừa kế thứ nhất chỉ có con cái, vợ hoặc chồng không được quy định trong một hàng thừa kế cố định nào và vị trí của người vợ bao giờ cũng bị xem nhẹ. Bởi theo quan niệm của người Việt Nam lúc bấy giờ “ nhập gia tùy tục, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” nên quyền lực gia đình tập trung vào người chồng. Khi một người phụ nữ kết hôn thì người chồng đương nhiên trở thành chủ sở hữu của tất cả tài sản trong gia đình, thạm chí là sở hữu luôn cả tài sản của người vợ đem về nhà chồng khi kết hôn. Về vấn đề này quốc triều hình luật có điểm tiến bộ hơn, những tài sản do vợ chồng làm ra thì chia đôi, người còn sống sở hữu ½ phần của người chết sẽ chia thừa kế. Trước khi chia thừa kế phải dành lại 1/20 điền sản làm hương hỏa, tuy tiến bộ hơn song vị trí người phụ nữ trong xã hội phong kiến vẫn không được cải thiện. Đến 97-SL thì con cháu, vợ chồng của người để lại di sản được hưởng thừa kế. Từ đó đến nay vợ chồng bao giờ cũng được ghi nhận ở hàng thừa kế thứ nhất.
Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau:
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng: Vợ - chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay còn gọi là “thừa kế đối nhau”, “ thừa kế của nhau”, nghĩa là trong đó, khi bên này chết thì bên kia là người thừa kế ở hàng thứ nhất và ngược lại, khi bên kia chết thì bên này là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo điều 8, luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì “ hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Mặt khác cũng tại điều 8 của luật trên quy định “ kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Vì thế, vợ - chồng được thừa kế di sản của nhau khi một bên chết, nếu vào thời điểm mở thừa kế mà quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên việc thừa nhận nam và nữ có quan hệ hôn nhân để theo đó xác định họ là vợ chồng, được thừa kế di sản của nhau theo hàng thừa kế thứ nhất rất khác nhau trong các giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn, kể từ khi luật hôn nhân và gia đình 1959 của nước ta có hiệu lực ( luật này có hiệu lực kể từ ngày 13 tháng 1 năm 1960) thì chế độ hôn nhân tiến bộ với một vợ một chồng mới được xác lập ở nước ta. Vì vậy, trong giai đoạn này phải chấp nhận hậu quả của chế độ đa thê về hôn nhân do chế độ cũ để lại nên một người mà có nhiều vợ mà các quan hệ hôn nhân đó được xác lập trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 vẫn phải được thừa nhận giữa họ có quan hệ thừa kế di sản của nhau theo quan hệ hôn nhân.
Chính vì thế khi xác định quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa vợ và chồng cần lưu ý các trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất, vợ chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly hôn, sau đó một bên chết thì về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân của họ vẫn tồn tại. Do đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ hai, vợ chồng đã ly thân và về mặt tình cảm hầu như tình yêu giữa họ đã “chết” nhưng vì một lý do tế nhị nào đó nên họ không ly hôn thì dù về mặt tình cảm, hôn nhân giữa họ “đã chết” nhưng về mặt pháp lý, hôn nhân giữa họ vẫn đang tồn tại. Vì vậy, người còn sống vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ ba,… khi một bên chết, dù người còn sống đang sống chung với người khác như vợ chồng một cách bất hợp pháp thì người đó vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ tư,… vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án cho ly hôn hoặc đã đượ tòa án cho ly hôn nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ năm,… nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đó đều được tiến hành trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 ở miền Bắc ( ngày luật hôn nhân và gia đình 1959 có hiệu lực pháp luật) và trước ngày 25 tháng 3 năm 1977 ở miền Nam ( ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên toàn quốc) thì khi người chồng chết trước tất cả các bà vợ ( nếu còn sống vào thời điểm người chồng chết) đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất của người chồng. Ngược lại, chồng là người thừa kế thứ nhất của những người vợ đã chết trước người chồng đó.
Trường hợp thứ sáu, nếu cán bộ, chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra miền Bắc, lấy vợ ở miền bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người chồng khi người chồng chết trước, và ngược lại khi những người vợ chết trước người chồng thì người chồng là người thừa ở hàng thứ nhất của người vợ đã chết.
Trường hợp thứ bảy, đối với các trường hợp hôn nhân không dăng ký kết hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế ( gồm các cuộc hôn nhân đwọc tiến hành trước ngày luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật có đủ điều kiện kết hôn nhưng không dăng ký kết hôn) thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa nhận và do vậy họ là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
Trường hợp thứ tám, hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung với nhau trước ngày luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật mà cuộc sống chung đó không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì họ vẫn được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng theo hôn nhân nên vẫn là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con: Quan hệ thừa kế giữa một bên là cha, mẹ với một bên là con cũng là quan hệ thừa kế mang tính hai chiều. Quan hệ này được xác định theo một trong hai căn cứ. Nếu căn cứ vào quan hệ huyết thống thì đó là những người có cùng dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đó, cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã sinh ra người đó và được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, cha, mẹ của người do mình sinh ra dù trong hay ngoài giá thú nhưng được pháp luật thừa nhận đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản theo pháp luật khi người con chết. Và ngược lại, người con trong hay ngoài giá thú đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản do cha, mẹ mình để lại. Nếu căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng thì đó là quan hệ giữa những người nuôi dưỡng lẫn nhau theo cha - con, mẹ - con hoặc theo cha, mẹ - con. Cha nuôi, mẹ nuôi của một người là đã nhận người đó làm con nuôi của mình theo quy định của pháp luật. Cha nuôi, mẹ nuôi là những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của con nuôi khi người con nuôi đó chết và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết.
Trong trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản của người con nuôi khi người con nuôi đó chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của con đẻ khi người con đẻ đó chết. Ngược lại,một người đang là con nuôi của người khác thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của cha, mẹ đẻ khi ch, mẹ đẻ chết.
Đối với trường hợp người nhận nuôi con không đăng ký việc nhận nuôi con nuôi con nuôi theo đúng quy định của pháp luật thì cha, mẹ nuôi với con nuôi chỉ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau khi được công nhận là con nuôi thực tế.
Cần lưu ý rằng cụm từ “ cha, mẹ và con” còn được dùng để chỉ các quan hệ khác như quan hệ giữa cha, mẹ của một người với vợ của người đó ( quan hệ này còn được gọi là cha, mẹ chồng với con dâu) hoặc giữa cha, mẹ của một người với chồng của người đó ( quan hệ này được gọi là cha, mẹ vợ với con rể). nhưng trong các trường hợp nói trên, không có căn cứ để xác định mối quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa họ. Vì thế, con dâu không phải là người thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ chồng, con rể không phải là người thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ vợ. Tuy nhiên, nếu người con dâu tham gia lao động chung trong gia đình cha, mẹ chồng, góp công sức trong việc xây dựng khối tài sản của gia đình cha, mẹ chồng thì người con dâu đó có quyền hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp của mình trong khối tài sản chung hiện có với tư cách là một đòng chủ sở hữu. Vì vậy, trước khi chia di sản của cha, mẹ chồng cho những người thừa kế cần phải tách từ khối tài sản đó phần tài sản thuộc quyền của người con dâu. Người con rể trong trường hợp tương tự trên cũng được đảm bảo quyền lợi như người con dâu.
Ngoài ra, cụm từ trên còn được dùng để chỉ quan hệ giữa con của một người với vợ kế của người đó hoặc giữa con của một người với chồng kế của người đó. Các quan hệ này được BLDS (cả 1995 và 2005) gọi là “quan hệ giữa con riêng với bố dượng mẹ kế”
Khi xác định về quan hệ thừa kế giữa những người này, điều 679 BLDS năm 2005 đã quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản theo quy định tại điều 676 và điều 677 bộ luật này”.
Điều luật trên quy định về hai mối quan hệ: quan hệ giữa con riêng với bố dượng: là quan hệ giữa người chồng với con riêng của người vợ. Quan hệ giữa con riêng với mẹ kế: là quan hệ giữa người vọ với con riêng của chồng. các bên trong hai mối quan hệ nói trên không có quan hệ huyết thống nên về nguyên tắc thì họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau. Tuy nhiên, nếu giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau thì họ được xác định tương tự như cha mẹ nuôi với con nuôi và vì thế họ sẽ là người thừa kế ở hàng thứ nhất của nhau nhưng không đương nhiên mang tính hai chiều như quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi. Cụ thể là: nếu bố dượng chăm sóc, nuôi dưỡng và coi con riêng cả vợ như con của mình thì khi người con đó chết, bố dượng sẽ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người con đó. Nếu con riêng của người vợ chăm sóc, nuôi dưỡng và coi bố dượng như cha mình thì khi bố dượng chết, con riêng của người vợ mới được coi là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của bố dượng. quan hệ thừa kế giữa con riêng của chồng với mẹ kế cũng được xem xét tương tự như trên. Tuy nhiên, như thế nào được coi là có “ quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” là một vấn đề hết sức khó khăn trong thực tiễn. thực tế cho thấy khi con riêng và mẹ kế cũng như con riêng và bố dượng không ở chung và sinh hoạt cùng một gia đình thì không thể xác định giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng trong khi những người con đó thật sự về mặt tình cảm đã coi mẹ kế như mệ đẻ, coi bố dượng như bố đẻ của mình và mặc dù không sống cùng nhà nhưng họ luôn luôn quan tâm và thường gửi tiền cũng như các vật chất khác để phụng dưỡng bố dượng mẹ kế. ngược lại có trường hợp tuy ở cùng nhà với nhau nhưng giữa họ “ bằng mặt nhưng không bằng lòng” nên việc xác định giữa họ có chăm sóc, nuôi dưỡng nhau “như cha con, mẹ con” là hết sức khó khăn. Thiết nghĩ vấn đề này cần có văn bản hướng dẫn thêm.
Khác với pháp luật nước ta pháp luật Nhật bản chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Đức nên không xếp vợ chồng vào một hàng thừa kế nào. Bởi lẽ pháp luật Nhật bản quy định hàng thừa kế ths nhất dựa trên quan hệ huyết thống trực hệ. do vậy, vợ chồng không thuộc hàng thừa kế thứ nhất do vợ chồng không có quan hệ huyết thống. thế nhưng những người này có tư cách thừa kế theo pháp luật và được hưởng một phần di sản được ấn định theo mối liên hệ thân thuộc giữa người chết và những người thừa kế được gọi là do huyết thống. ngoài ra pháp luật Nhật bản không coi quan hệ nuôi dưỡng là cơ sở xác định diện và hàng thừa kế. có trường hợp những người được hưởng thừa kế cùng một lúc nhưng lại không được hưởng di sản như nhau. Trong trường hợp có hai người thừa kế cùng hàng thì phần của người chồng và người vợ để lại di sản sẽ được hưởng theo nguyên tắc nhất định. Ví dụ trong trường hợp ở hàng thừa kế thứ nhất thì phần của các con là 2/3 và củ