Trên thế giới có khoảng 75 nước trồng cà phê và chủ yếu tập trung ở Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Khoảng 10 triệu lao động tham gia sản xuất cà phê. Tổng diện tích cà phê thế giới trên 10 triệu ha, sản lượng hàng năm trên dưới 6 triệu tấn, đem lại thu nhập cho khoảng 100 triệu người. Nếu kể cả những người trồng và những người liên quan đến tiêu thụ cà phê thì trên toàn thế giới có khoảng 20-25 triệu người sống nhờ cây cà phê. Tại nhiều nước, cà phê chiếm hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đối với trên 17 quốc gia trồng cà phê chính, mặt hàng này đóng góp 25% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Các nước đứng đầu sản xuất cà phê hiện nay là: Braxin, Indonesia, Ethiopia, Mêhicô, Côlômbia, Việt Nam, Ấn Độ. Trong khi đó, các nước phát triển như Mỹ, các nước EU, Nhật Bản và một số nước công nghiệp hoá mới như Singapore và Malaysia là những nước nhập khẩu chủ yếu.
Thị trường cà phê thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo, không ổn định, nhất là về giá cả. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) do không còn giữ được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại đây. Tình trạng này dẫn đến hậu quả là nhiều nước phải huỷ bỏ bớt diện tích cà phê, hoặc không tiếp tục chăm sóc vì kinh doanh không còn thấy có hiệu quả.
32 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xác định điều kiện và nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi CCKTNN và NT của các vùng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
____________*&*____________
Đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ
Cấp nhà nước KC 07.17
NGHIÊN CỨU LUẬN CỨ KHOA HỌC ĐỂ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
Đề tài nhánh 3 :
XÁC ĐỊNH ĐIỀU KIỆN VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI CCKTNN VÀ NT CỦA CÁC VÙNG KINH TẾ
Hợp phần 2 :
NGÀNH HÀNG CÀ PHÊ CỦA VÙNG TÂY NGUYÊN
TẠI TỈNH ĐĂK LĂK
Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam
Địa chỉ: Văn Điển - Thanh Trì - Hà Nội
Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Quốc Doanh
Thực hiện: ThS. Vũ Nguyên; KS. Nguyễn Tố Anh
Hà Nội - 2003
Trong những năm vừa qua, cuộc khủng hoảng cung cấp dư thừa cà phê trên phạm vi toàn thế giới đã làm ngành sản xuất cà phê của nhiều nước bị tàn phá, trong đó có Việt Nam, một nước đã từng bị chỉ trích là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng. Việc xem xét, tìm hiểu thực tế hiện trạng của ngành cà phê Việt Nam, tác động của biến động cà phê thế giới tới sản xuất cà phê Việt Nam, định hướng lâu dài cho phát triển bền vững của ngành cà phê là việc cần thiết. Báo cáo này nhằm phân tích những thuận lợi và những khó khăn khi phát triển ngành cà phê, những định hướng phát triển bền vững cho cây cà phê Việt Nam và ở tỉnh Đak Lak.
A. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ TRÊN THẾ GIỚI.
1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT.
Trên thế giới có khoảng 75 nước trồng cà phê và chủ yếu tập trung ở Nam Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Khoảng 10 triệu lao động tham gia sản xuất cà phê. Tổng diện tích cà phê thế giới trên 10 triệu ha, sản lượng hàng năm trên dưới 6 triệu tấn, đem lại thu nhập cho khoảng 100 triệu người. Nếu kể cả những người trồng và những người liên quan đến tiêu thụ cà phê thì trên toàn thế giới có khoảng 20-25 triệu người sống nhờ cây cà phê. Tại nhiều nước, cà phê chiếm hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đối với trên 17 quốc gia trồng cà phê chính, mặt hàng này đóng góp 25% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Các nước đứng đầu sản xuất cà phê hiện nay là: Braxin, Indonesia, Ethiopia, Mêhicô, Côlômbia, Việt Nam, Ấn Độ. Trong khi đó, các nước phát triển như Mỹ, các nước EU, Nhật Bản và một số nước công nghiệp hoá mới như Singapore và Malaysia là những nước nhập khẩu chủ yếu.
Thị trường cà phê thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo, không ổn định, nhất là về giá cả. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) do không còn giữ được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại đây. Tình trạng này dẫn đến hậu quả là nhiều nước phải huỷ bỏ bớt diện tích cà phê, hoặc không tiếp tục chăm sóc vì kinh doanh không còn thấy có hiệu quả.
Giá cà phê hiện nay giảm chỉ bằng 50% giá cà phê của thập kỷ 1980 do cung vẫn vượt cầu khá xa, làm cho 25 triệu hộ nông dân trồng cà phê lâm vào cảnh bần hàn. Nhiều hộ gia đình vay tiền ngân hàng đầu tư cho cà phê đã bị phá sản do bán cà phê thấp hơn giá thành. Xuất khẩu cà phê toàn cầu năm 2002 đạt 87,09 triệu bao, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 5,09 tỷ USD. Doanh thu hàng năm của việc kinh doanh mặt hàng cà phê tăng lên gần 80 tỷ USD, nhưng các nước sản xuất cà phê chỉ thu được 5,5 tỷ USD, bằng 8,58% tổng doanh thu và phê thế giới, số còn lại thuộc về các nước nhập khẩu chế biến, buôn bán cà phê.
2. XU HƯỚNG TIÊU THỤ CÀ PHÊ.
Trong các giải pháp được đưa ra nhằm giải quyết tình trạng khó khăn này người ta cũng nói nhiều tới việc khuyến khích tiêu dùng trên toàn cầu. Tuy nhiên, điều này có vẻ khó thực thi, thể hiện ở con số tăng trưởng tiêu thụ cà phê hàng năm trong mấy năm gần đây khá chậm chạp, chưa có bước đột phá đáng kể nào, mặc dù ICO rất nỗ lực trong việc thúc đẩy tốc độ tăng tiêu dùng cà phê cộng thêm thuận lợi là mức giá hiện đang rất thấp .Từ năm 1992 đến năm 2000 tiêu thụ chỉ tăng có 2,35%. Vụ 2001/02 ước tính tổng tiêu thụ cà phê sẽ đạt khoảng 105,6 triệu bao, tăng 1,1 triệu bao so với vụ trước.
Bảng 1: Tiêu thụ tại các nước sản xuất.
Đơn vị: 1000 bao (60 kg/bao)
Nước
2001/02
2000/01
1999/00
1998/99
Braxin
13410
13100
12750
12100
Indonesia
1675
1630
1610
1600
Ethiopia
1700
1667
1610
1633
Mêhicô
1500
1280
1250
1000
Côlômbia
1400
1400
1400
1600
Việt Nam
583
417
350
272
Ấn Độ
925
917
916
833
Tổng ở các nước sản xuất
27255
26401
25868
25003
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Việc ước tính chính xác lượng tiêu thụ ở mỗi nước là một điều khó thực hiện do ngay ở từng nước các con số được đưa ra cũng đã không đồng nhất. Tuy nhiên qua bảng trên ta cũng có thể thấy sự tăng trưởng khá đều trong những năm gần đây.
Braxin cũng như một số quốc gia sản xuất hàng đầu khác, đã bắt đầu nhận thức được những thuận lợi trong việc đẩy mạnh tiêu dùng cà phê trong nước và hiện đang khá tích cực khuyến khích điều này. Braxin không chỉ là nước sản xuất cà phê đứng đầu thế giới mà còn được xếp thứ hai sau Mỹ trong việc tiêu thụ cà phê. Hiện nay Braxin tiêu thụ trên 13 triệu bao mỗi năm, chiếm khoảng 40% sản lượng trung bình của nước này. Nếu tính theo đầu người, trung bình mỗi người Braxin uống 4,9 kg cà phê/năm, trong khi ở Côlômbia là 1,9 kg, còn ở Việt Nam con số này quá nhỏ để có thể tính chính xác. Ngành cà phê Braxin đã đặt mục tiêu đưa lượng tiêu thụ nội địa lên 1,5 triệu bao mỗi năm thông qua các chương trình quảng cáo và khuyến mãi, đẩy con số bình quân đầu người lên 5,3 kg.
Các nước sản xuất cà phê Trung và Nam Mỹ cũng đã nhận biết được lợi ích của việc sản xuất cà phê chất lượng cao để cung cấp cho thị trường cà phê đặc sản mới nổi lên. Ví dụ như Côlômbia dự định tăng gấp đôi lượngcà phê hảo hạng trong vòng 5 năm tới đây. Hiện nay, cà phê hảo hạng mới chiếm 10% tổng lượng xuất khẩu của nước này.
Còn ở những nước Trung Mỹ có tiềm lực tài chính đủ mạnh, người ta đầu tư nhiều vào đa dạng hoá mặt hàng cà phê hữu cơ đặc biệt bởi xu hướng này cũng đang phát triển khá mạnh.
Ở Ấn Độ, tiêu thụ cà phê trong thập kỷ vừa qua gần như không có chuyển biến nhiều, giữ ở mức 0,92 đến 1 triệu bao mỗi năm, trong đó 80% ở các thị trấn lớn ở vùng trồng cà phê phía nam. Ở các khu vực khác, người ta rất ít uống cà phê. Đối thủ chính của cà phê ở các vùng này là trà và các loại đồ uống lạnh. Người dân phía bắc lại có vẻ thích cà phê nhập khẩu hơn nhưng như vậy giá cả lại khá đắt và vượt quá khả năng của một số khách hàng tiềm năng. Ấn Độ là một trong những nước đông dân nhất thế giới nên phạm vi phát triển khá rộng, tuy nhiên để đạt được sự chấp thuận của công chúng thì còn nhiều việc cần phải làm. Giá cả là điều kiện khá quan trọng trong quyết định của người tiêu dùng nước này do có nhiều loại đồ uống khác có giá rẻ hơn nhiều.
Dự trữ cà phê đầu niên vụ 2000/01 tại những nước nhập khẩu cà phê giảm 0,74 triệu bao xuống còn 20,35 triệu bao. Tuy nhiên kho dự trữ chiến lược tăng từ 16 triệu bao năm 2000 lên 20 triệu bao năm 2002. Tiêu thụ cà phê toàn cầu mấy năm gần đây ở mức 109 triệu bao. Các nước nhập khẩu tiêu thụ 81,75 triệu bao năm 2002 so với mức 82 triệu bao năm 2001. Lượng cà phê tiêu thụ ở 5 nước tiêu thụ cà phê nhiều nhất thế giới, trong đó Nhật bản đứng thứ ba thế giới tiêu thụ 7 triệu bao/năm lại đang giảm mạnh.
Bảng 2: Tiêu thụ tại các nước nhập khẩu đứng đầu
Đơn vị: 1000 bao
Nước
2001/02
2000/01
1999/00
1998/99
Mỹ
19500
19400
18700
19100
EU
34800
34600
34400
34400
Nhật
7000
6900
6800
6500
Tổng ở các nước NK
78600
78100
77100
77000
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Nhìn vào bảng trên ta thấy tốc độ tăng trưởng tiêu dùng cà phê tại các nước nhập khẩu phát triển quá chậm, thậm chí chậm hơn nhiều so với dự đoán, mặc dù giá đã giảm quá mạnh. Tuy nhiên nhu cầu cà phê đặc sản vẫn tiếp tục chuyển biến theo chiều hướng tốt, đặc biệt ở các nước EU. Tốc độ tăng của tiêu thụ cà phê ở khối EU hoàn toàn phản ánh được sự phát triển của thị trường cà phê đặc sản, đặc biệt ở Đức và Anh quốc.
Trong khối EU, Vương quốc Anh có lượng tiêu thụ cà phê theo đầu người thấp nhất, khoảng 2,4 kg mỗi năm, trong khi Thuỵ Sĩ đứng đầu với 11,9 kg/người/năm. Hiện tượng cà phê đặc sản cũng đang lan rộng tại nước này và các hiệp hội cấp khu vực và cấp quốc gia đang nỗ lực tìm kiếm biện pháp đẩy mạnh nhu cầu.
Tốc độ tăng trưởng nhu cầu cà phê tại Nhật Bản mấy năm lại đây có xu hướng khá tốt do lượng cà phê được uống tại nhà tăng đáng kể cộng thêm sự mở rộng của mạng lưới các cửa hàng cà phê đặc sản. Trong năm 2000 nước này đã nhập khẩu 7,36 triệu bao cà phê. 11 tháng đầu năm 2001 Nhật Bản đã nhập khẩu tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2000. Công nghệ tiên tiến, ví dụ như sản xuất loại phin pha cà phê dùng 1 lần, chiếm vị trí quan trọng trong bước phát triển này.
Với chương trình khuyến khích tiêu thụ cà phê của ICO, cà phê ngày càng được coi là thời thượng ở Nga, nhu cầu tăng lên khá rõ rệt. Tuy nhiên các công ty trong nước chi chiếm 15% thị phần, 85% còn lại thuộc về các tập đoàn lớn như Nestle. Năm 2001 nước này đã nhập 21400 tấn cà phê, tăng 5,4 lần so với năm 2000. ICO cho biết tiêu thụ tại thị trường này sẽ tăng 19% mỗi năm. Cà phê hoà tan hiện nay khá được ưa chuộng tại Nga và ngày càng nhiều công ty trong nước tham gia vào sản xuất loại sản phẩm này. Cà phê được nhập khẩu thâm nhập vào thị trường thông qua việc đẩy mạnh sản xuất và thiết lập các nhà máy đóng gói và các cơ sở phân phối. Tuy Nga là nước có truyền thống uống trà, mặc dù nhập khẩu chè vẫn không mấy thay đổi, nhập khẩu cà phê vẫn tăng khá đều.
Theo ICO, Trung Quốc cũng là nước mục tiêu của ICO bên cạnh Nga, mỗi năm tiêu tụ tăng tới 30%. Tuy nhiên đây chỉ là bước nhảy vọt từ con số ban đầu quá nhỏ bé do văn hoá trà đã ăn sâu vào tiềm thức người dân, mọi ý định thay đổi đều gặp những phản kháng khá mạnh. Các quán bar đã được đưa vào, chủ yếu đặt tại Bắc Kinh và Thượng Hải.
Bảng 3: Tổng tiêu thụ toàn cầu.
Đơn vị: Triệu bao
Nhóm
2001/02
2000/01
1999/00
1998/99
Nước NK
78,6
78,1
77,1
77
Nước SX
27,0
26,4
25,9
25,0
Tổng
105,6
104,5
103,3
102,0
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Với khoảng 1/4 dân số thế giới hiện uống cà phê thường xuyên, triển vọng tăng tiêu thụ là rất khả quan. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ chờ đợi và không có hành động tích cực nào để đẩy mạnh, e rằng tốc độ tăng chắc chắn sẽ còn chậm chạp chẳng khác gì những năm vừa qua. Và nếu cứ giữ mức tăng chưa đầy 5% mỗi năm hiện nay có lẽ tới vụ 2005/26 chúng ta mới hy vọng tổng lượng tiêu thụ đạt mức 110 triệu bao.
3. THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM.
Tuy sản lượng bắt đầu giảm, Việt Nam vẫn là nước sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Braxin, đồng thời ở Việt Nam cà phê cũng là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn đứng thứ hai sau gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Vụ 2000/01 Việt nam đã xuất cà phê đi 61 nước, trong đó 10 nước nhập khẩu cà phê đứng đầu gồm:
Bảng 4: 10 nước nhập khẩu hàng đầu của ngành cà phê Việt Nam
STT
Tên nước
Số lượng (tấn)
Trị giá
(USD)
% so với tổng xuất khẩu
1
Bỉ
138603
57947984
15,85
2
Mỹ
137501
59371585
15,72
3
Đức
134321
60054805
15,36
4
Tây Ban Nha
73852
31666889
8,44
5
Ý
62559
27796789
7,15
6
Pháp
45998
20147381
5,26
7
Ba Lan
38155
17171839
4,36
8
Anh
30153
13055058
3,45
9
Nhật
26905
13274686
3,08
10
Hàn Quốc
26288
11310104
3,01
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Trong vụ 2001/02 dù tình hình giá cả biến động không lợi cho chúng ta nhưng thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam không những không giảm mà còn tăng lên từ 61 lên 64 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên về lượng tiêu thụ của từng nước có những thay đổi lớn. Đức lại nổi lên là khách hàng số 1 của Việt Nam với 112739 tấn, Mỹ nhập cà phê Việt Nam ít đi ở vị trí thứ hai với số lượng nhỏ đi nhiều là 89288 tấn.
Vụ 2000/01 có 15 nước hàng đầu nhập trên 10000 tấn tổng cộng đã nhập 785086 tấn chiếm 89,75% thị phần. Vụ 2001/02 này cũng có 15 nước hàng đầu nhập trên 10000 tấn tổng cộng đã nhập 614275 tấn chiếm 86,06% thị phần (624275 tấn). Và danh sách 15 nước này qua hai vụ chỉ thay đổi 1 nước còn 14 nước giữ nguyên nhưng có thay đổi vị trí. 14 nước đó là: Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Ba Lan, Pháp, Nhật, Hàn Quốc, Anh, Philippines, Hà Lan, Úc, Hungari. Nước thứ 15 ở vụ 2000/01 là Canada và ở vụ sau là Romania. Trung Quốc cũng là một khách hàng khá ổn định nhiều năm, Ấn Độ và Indonesia là hai nước sản xuất cà phê vào hàng lớn ở châu Á nhưng hàng năm vẫn mua cà phê của ta. Riêng thị trường Nga thì chúng ta chưa bán được nhiều, mỗi năm chỉ vài trăm tấn.
4. TÁC ĐỘNG CỦA THẾ GIỚI.
Năm 1994 do những đợt sương muối và sau đó là hạn hán diễn ra ở Braxin (nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới) vì vậy đã làm cho sản lượng cà phê của nước này giảm xuống gần 50%, do đó đã góp phần làm cho giá cà phê tăng vọt, có lợi cho những người trồng và xuất khẩu cà phê trên thế giới.
Do sự kích thích của giá cả thị trường nên ở Việt Nam, diện tích và sản lượng cà phê tăng lên quá nhanh, vượt các mục tiêu của kế hoạch, ngoài tầm kiểm soát của ngành cũng như của Nhà nước. Vấn đề này đã có tác động quan trọng trong việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường, đẩy giá cà phê đến mức thấp nhất trong thời gian mấy chục năm qua, chính ngành cà phê Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi vì sản lượng càng lớn thua lỗ càng nhiều.
Theo ICO, nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng cà phê hiện nay là do cung vượt cầu, sản lượng cà phê năm 2002 đạt 120 triệu bao, tăng 9 triệu bao so với niên vụ trước. Năm 2001, sản lượng cà phê thế giới là 116,3 triệu bao, cao hơn khoảng 10 triệu bao so với nhu cầu tiêu dùng. Trong khi đó, sản lượng cà phê Robusta lại tăng từ mức trung bình 30% lên 39% tổng sản lượng thế giới. Ngân hàng thế giới (WB) cho biết sản lượng cà phê toàn cầu trong 5 năm trở lại đây ở mức trung bình 114 triệu bao, cao hơn nhiều so với mức trung bình 99 triệu bao trong các niên vụ từ 1992 – 1997. Yếu tố này gây ra áp lực rất lớn lên ngành cà phê Việt Nam, nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới và là nước xuất khẩu thứ nhì sau Braxin. Giá cà phê Robusta đã giảm từ mức 3000 USD/tấn từ năm 1994 – 1998 xuống còn 320 USD/tấn vào năm 2001.
Có thể nói tình hình phát triển chung của ngành cà phê toàn cầu tác động lớn đến ngành cà phê nước ta. Ngành cà phê Việt nam sau một vài năm phát triển với tốc độ quá nhanh nên cũng gặp rất nhiều khó khăn. Giá bán cà phê thấp nên doanh thu không đủ chi phí sản xuất và người nông dân đã ngừng mua phân bón, nước tưới và không chăm sóc cho cây cà phê. Nhiều hộ nông dân ở Tây Nguyên đã lâm vào cảnh nghèo đói. Các tỉnh Đak Lak và Gia Lai cũng đã dự kiến cắt giảm diện tích cà phê khoảng gần 90000 ha. Sản lượng cà phê cũng đã giảm từ 900000 tấn năm 2000 xuống 700000 tấn trong năm 2001.
Xem xét diễn biến của tình hình xuất khẩu cà phê ở Việt Nam qua các vụ từ 1995/96 đến 2000/01 có thể thấy sự tăng trưởng nhanh chóng về lượng xuất khẩu cùng với sự giảm sút nhanh chóng về giá cả:
Bảng 5: Lượng xuất khẩu và đơn giá bình quân.
Niên vụ
Xuất (tấn)
Đơn giá bình quân (USD/tấn)
1994/95
212038
2633
1995/96
221496
1815
1996/97
336242
1198
1997/98
395418
1521
1998/99
404206
1373
1999/00
653678
823
2000/01
874676
436,6
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Các vụ cà phê từ 1998/99 về trước lượng cà phê xuất khẩu tăng hàng năm không lớn lắm. Nhưng hai vụ 1999/00 và 2000/01 mỗi vụ tăng trên 200000 tấn tức là tăng khoảng 3,5 triệu bao, và đơn giá xuất khẩu hai vụ này cũng thấp thảm hại, giá vụ sau chỉ bằng xấp xỉ 60% giá vụ trước. Tình hình này đem lại cho những người trồng cà phê và các doanh nghiệp xuất khẩu nhiều khó khăn, nếu kéo dài thì chắc chắn sẽ không chịu đựng nổi. Kết quả tất yếu dẫn đến là nông dân bỏ không chăm sóc vì hết khả năng đầu tư và cũng không thu hái sản phẩm để vườn cây suy thoái dần, thậm chí còn chặt bỏ cà phê để trồng cây khác.
Do sản lượng cà phê tăng nhiều, giá cà phê xuống thấp nên việc xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn và đã phát sinh nhiều tranh chấp về hợp đồng, bị khách hàng phàn nàn, kiện cáo. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) đã khuyến cáo các nước sản xuất cà phê giảm sản lượng, đưa ra những tiêu chuẩn khắt khe về cà phê xuất khẩu, huỷ cà phê xấu, không xuất khẩu cà phê vối có trên 150 lỗi/300 gam, cà phê chè có trên 86 lỗi, cà phê nhân có thuỷ phần trên 12,5%,.... Nhưng đây cũng lại là một vấn đề: nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cà phê đều thừa nhận việc nâng cao chất lượng cà phê là yêu cầu bức thiết nhưng loại cà phê chất lượng cao vẫn chưa có đầu ra ổn định. Cái khó nữa của nhà sản xuất là chi phí đầu tư để sản xuất loại sản phẩm chất lượng cao thường tốn thêm 30-40 USD/tấn (gồm chi phí vận chuyển đến nhà máy, giảm tạp chất, giảm hạt vỡ,...) nhưng các nhà xuất khẩu chỉ chấp nhận mức chênh lệch so với loại cà phê thường khoảng 20 USD/tấn.
Trước tình hình khó khăn của ngành cà phê, từ năm 2000 đến nay Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương, biện pháp tích cực, kể cả biện pháp tài chính huy động ngân sách nhà nước để giúp đỡ nông dân cũng như các doanh nghiệp qua khỏi khó khăn như:
- Quyết định 116/2000/QĐ/BNN-KH ngày 15-11-2000 về việc ban hành Quy chế tạm trữ và quản lý lượng cà phê tạm trữ.
- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính Về việc thưởng theo kim ngạch xuất khẩu cho các mặt hàng gạo, cà phê, thịt lợn, rau quả hộp trong năm 2001.
- Thông tư số 01/2000/TT-BTM ngày 5 tháng 1 năm 2001 hướng dẫn điều khoản giá trong hợp đồng xuất khẩu cà phê.
- Quyết định 1067/QĐ-TTg ngày 27-10-2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ cà phê xuất khẩu niên vụ 2000-2001 .
- Chính sách khoanh nợ và giãn nợ đối với những khoản vay đầu tư trồng cà phê trong những năm trước cho các hộ nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, tiếp tục cho nông dân vay tiền để chăm sóc vườn cà phê hoặc trồng cây khác v.v.
Tuy nhiên, những giải pháp đó mang tính chất tạm thời hơn là những chính sách mang tính dài hạn. Do khả năng tài chính của đất nước có hạn nên thực hiện các chính sách này cũng còn nhiều khó khăn. Chẳng hạn chính sách thu mua tạm trữ đã góp phần tăng giá xuất khẩu lên tới 25,4% ngay tại thời điểm áp dụng nhưng việc tạm trữ diễn ra không lâu sau đó lại phải xuất khẩu nên giá lại giảm. Tác dụng của chính sách này bị hạn chế do người hưởng lợi chính là người kinh doanh xuất khẩu. Chính sách thưởng theo kim ngạch xuất khẩu có thể nâng giá bán lên khoảng 3,4% nhưng cũng là mang tính tạm thời vì sản lượng trong và ngoài nước vẫn tiếp tục tăng lên và không đủ mạnh để giữ giá lâu, và tác động trực tiếp của nó là các nhà xuất khẩu được lợi chứ không phải là nông dân trồng cà phê, nhất là những ngừi nghèo....
Để ngành cà phê Việt Nam đứng vững và phát triển ổn định, điều quan trọng hơn cả là cần có một chiến lược hoàn chỉnh cho ngành cà phê cả về sản xuất, kinh doanh, các giải pháp và tổ chức quản lý ngành. Chính phủ cần phải chỉ ra hướng đi cho ngành cà phê và sự điều chỉnh phương hướng là một vấn đề cần phải làm ngay đối với ngành cà phê Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng dư thừa cà phê hiện nay đã tác động rất xấu đến ngành cà phê Việt Nam. Nhưng cũng có thể nói là bên cạnh những mặt xấu đó cũng có mặt tốt là chính trong khó khăn này những người làm cà phê mới thấy rõ những thiếu sót tồn tại của mình và từ đó chọn cho mình hướng đi đúng đắn hơn.
B. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT TRONG NƯỚC.
1. TÌNH HÌNH CHUNG CẢ NƯỚC
Nước Việt nam nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc Bán cầu, trải dài theo phương kinh tuyến từ 8030’ đến 23030’ vĩ độ Bắc. Điều kiện khí hậu và địa lý rất thích hợp với việc phát triển cà phê. Miền địa lý khí hậu phía Nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thích hợp với cà phê Robusta. Miền khí hậu phía Bắc có mùa đông lạnh và có mưa phùn thích hợp với cà phê Arabica.
Cách đây 25 năm, vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra, chủ yếu là tại địa bàn hai tỉnh Đak Lak và Gia Lai Kontum ở Tây Nguyên. Vào thời gian này cả nước mới chỉ có không đầy 20000 ha phát triển kém, năng suất thấp với sản lượng chỉ khoảng 4000 – 5000 tấn.
Trong vòng 15-20 năm trở lại đây ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc, sản lượng cà phê cả nước tăng lên hàng trăm lần. đến nay đã có hơn 500000 ha, hầu hết sinh trưởng khoẻ, năng suất cao, tổng sản lượng đạt tới 900000 tấn. Diện tích cà phê ở Vi