Khi nền kinh tế thị trường phát triển đến một trình độ nhất định doanh nghiệp cũng trở thành hàng hoá khi nhu cầu mua và bán và đầu tư rộng rãi trên thị trường thì hoạt động định giá trở nên sôi động và ngày càng được chú trọng trong các cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước ,cổ phần hoá là giải pháp mang tính đột phá giải quyết vấn đề cơ bản là sở hữu doanh ngiệp .Và do đó tạo ra môi trường động lực to lớn giúp cho doanh ngiệp nhà nước sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần có tốc độ tăng trưởng theo cấp số nhân toàn diện thì vẫn đề xác định giá trị doanh nghiệp là không thể thiếu để đảm bảo quyền lợi người mua và người bán cũng như quyền lợi các thành viên công ty cổ phần ,trong quá trình chuyển đổi . Đây là một đề tài gây ra nhiều tranh luận trên các diễn đàn kinh tế cả về lý luận lẫn thưc tiến trong mấy nhiều năm qua .Từ tính chất bức thiết của nó nhóm quyết định chọn đề tài ( Xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước khi tiến hành cổ phần hóa ).Trong quá trình cổ phần hoá doanh ngiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định nhưng bên cạnh đó nó còn có nhiều thiếu sót và hạn chế cần nghiên cứu đưa ra phương pháp đúng đắn nhằm phát triển hoàn thiện hơn nữa .Trong những yếu tố đó là viêc xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá đây là nhân tố quan trọng trong quá trình cổ phần hoá ,đảm bảo quyền lợi nhà nước trong công ty cổ phần ,vi vậy nhóm quyết định chọn đề tài này để nhằm củng cố thêm kiến thức của mình về việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần mà cốt lõi là vẫn đề xây dựng giá trị doanh ngiệp trong quá trình cổ phần hoá.
46 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2421 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN
BỘ MÔN THẨM ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP KHI CHUYỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SANG CÔNG TY CỔ PHẦN
GVHD: TS. HAY SINH
DANH SÁCH NHÓM 10:
NGUYỄN MINH KHA
TRẦN ĐỨC TUẤN
TRỊNH XUÂN DUYÊN
BÙI QUANG HUY
NGUYỄN MINH NHẬT
NGUYỄN TRUNG THÀNH
GIÁP THANH TÙNG
NGUYỄN TIẾN ĐỨC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2010
Nhận xét của giáo viên
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 2
1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước 2
2. Khái niệm công ty cổ phần 2
3. Khái niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần 2
4. Vì sao cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 3
5. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: 6
6. Quy trình chung cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 7
7. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 8
II. VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ 15
1. Những khái niệm 15
1.1. Giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá 15
1.2 Giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 15
1.3 Lợi thế doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa doanh nhiệp nhà nước 16
2. Những phương pháp xây dựng giá trị doanh nghiệp và những điều kiện để xác định chính xác giá trị doanh nghiệp 16
2.1 Những căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá 16
2.2. Phương pháp xá định giá trị của doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . 16
2.3. Hạn chế của phương pháp định giá 24
2.4. Giải pháp hoàn thiện phương pháp định giá. 24
2.5 Điều kiện để xác định chính xác giá trị doanh nghiệp 25
3. Ý nghĩa việc xác định đúng gía trị doanh nghệp 26
III. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN CƠ ĐIỆN LẠNH 26
1. Sơ lược về công ty 26
1.1 Công ty thành viên trực thuộc 27
1.2 Sản phẩm : 28
1.3 Thị trường : 29
2. Đánh giá môi trường kinh doanh của Doanh Nghiệp 29
2.1. Môi trường vĩ mô 29
2.2. Môi trường kinh tế 29
2.3 Môi trường chính trị, pháp luật 30
2.4. Môi trường văn hóa xã hội 31
2.5. Môi trường công nghệ 32
2.6. Môi trường ngành 32
3. Thẩm định giá trị của Cơ điện lạnh 35
3.1. Cơ cấu của ngân lưu chiết khấu 35
3.2. Các giả định đưa ra khi trong quá trình thẩm định 36
3.3. Quy trình thẩm định giá trị DN Cơ điện lạnh 36
3.4. Kết quả thẩm định giá trị Doanh nghiệp Cơ điện lạnh 37
Kết luận 41
Tài liệu tham khảo 42
Lời mở đầu
Khi nền kinh tế thị trường phát triển đến một trình độ nhất định doanh nghiệp cũng trở thành hàng hoá khi nhu cầu mua và bán và đầu tư rộng rãi trên thị trường thì hoạt động định giá trở nên sôi động và ngày càng được chú trọng trong các cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước ,cổ phần hoá là giải pháp mang tính đột phá giải quyết vấn đề cơ bản là sở hữu doanh ngiệp .Và do đó tạo ra môi trường động lực to lớn giúp cho doanh ngiệp nhà nước sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần có tốc độ tăng trưởng theo cấp số nhân toàn diện thì vẫn đề xác định giá trị doanh nghiệp là không thể thiếu để đảm bảo quyền lợi người mua và người bán cũng như quyền lợi các thành viên công ty cổ phần ,trong quá trình chuyển đổi . Đây là một đề tài gây ra nhiều tranh luận trên các diễn đàn kinh tế cả về lý luận lẫn thưc tiến trong mấy nhiều năm qua .Từ tính chất bức thiết của nó nhóm quyết định chọn đề tài ( Xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước khi tiến hành cổ phần hóa ).Trong quá trình cổ phần hoá doanh ngiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định nhưng bên cạnh đó nó còn có nhiều thiếu sót và hạn chế cần nghiên cứu đưa ra phương pháp đúng đắn nhằm phát triển hoàn thiện hơn nữa .Trong những yếu tố đó là viêc xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá đây là nhân tố quan trọng trong quá trình cổ phần hoá ,đảm bảo quyền lợi nhà nước trong công ty cổ phần ,vi vậy nhóm quyết định chọn đề tài này để nhằm củng cố thêm kiến thức của mình về việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần mà cốt lõi là vẫn đề xây dựng giá trị doanh ngiệp trong quá trình cổ phần hoá .
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Theo luật doanh nghiệp nhà nước do Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 20/04/1995 thì doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa như sau: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.
Như vậy doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do nhà nước giao. Và vì doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn nên tài sản trong doanh nghiệp là thuộc sở hữu nhà nước, còn doanh nghiệp chỉ quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước.
2. Khái niệm công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng nhau góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn của mình góp vào công ty. (Theo luật công ty ngày 21 - 12 – 1990)
3. Khái niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần
Có thể khái quát về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một biện pháp chuyển đổi hình thức sở hữu trong doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang sở hữu của các cổ đông (trong đó nhà nước có thể tham gia với tư cách cổ đông hoặc không tham gia). Đi đôi với việc chuyển đổi sở hữu là việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, được điều chỉnh theo các quy định trong Luật doanh nghiệp. Về hình thức, đó là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần (vốn của mình trong doanh nghiệp cho các cá nhân tổ chức trong và ngoài doanh nghiệp, hoặc trực tiếp tự doanh nghiệp theo cách bán giá thông thường hay bằng phương thức đấu giá hoặc qua thị trường chứng khoán.
Về bản chất, đó là phương thức thực hiện xã hội hoá đồng vốn thuộc sở hữu nhà nước, chuyển từ doanh nghiệp 1 chủ sở hữu sang đa sở hữu, tạo nên mô hình doanh nghiệp hoạt động phù hợp kinh tế thị trường.
4. Vì sao cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hoá hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp từ đây dẫn tới những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương hướng hoạt động của công ty.
Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nươc đã bộc lộ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút khủng hoảng .Vì vậy chuyển sang hình thức mới là công ty cổ phần.
Trong công ty cổ phần quyền lợi của những người chủ gắn chặt với những thành bại hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vì thế họ rất đoàn kết gắn bó thống nhất trong công việc tìm kiếm đứa ra phương hướng hoạt động phù hợp nhất hoạt động của doanh nghiệp nhằm củng cố tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra quan tâm đến công việc sản xuất của công ty và lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao, khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của doanh nghiệp, xoá tình trạng vô chủ của doanh nghiệp. Mặc dù chủ trương trao quyền tự quản cho các doanh nghiệp nhà nước là giải pháp đạt kết quả nhất định nhưng chỉ mới đẩy lùi được chế độ bao cấp nhà nước đối doanh nghiệp nhà nước, còn về phần thức thì tài sản doanh nghiệp nhà nước vẫn là tài sản chung cho nên tình trạng vô trách nhiệm ,láng phí của công vẫn chưa được khắc phục . khi doanh nghiệp nhà nước trở thành công ty cổ phần thì điều này mằc nhiên sẽ không còn tồn tại .
Doanh ngiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng ,cấu thành khu vưc kinh tế nhà nước ,vì thế vai trò chủ đạo thành phần kinh tế này phụ thuộc nhiều hiệu quả kinh tế xã hội mà doanh nghiệp nhà nước mang lại nước ta cũng giống như những nước xã hội chủ nghĩa trước đây ,thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ,lấy việc mở rộng và phát triển cac doanh nghiệp nhà nước làm muc tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội nên đã chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế và dựa trên cơ sở nguồn vốn cấp phát ngân sách nhà nước , tất cả các hoạt động đều chịu sự kiểm sóat và chi phối trưc tiếp của nhà nước song cũng giống như nhiều nước trên thế giới ,các doanh nghiệp nhà nước hoạt động hết sưc kém hiệu quả ,ngày càng bộc lộ những điểm yếu ,đặc biệt là cấp địa phương quản lý.
Tỷ trọng tiêu hao vật chất :tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực nền kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân cao gấp hai lần so nền kinh tế tư nhân .
Mức tiêu hao vật chất của các doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất cho một đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao gấp 1,3 lần so mức trung bình trên thế giới .
VD: chi phí vật chất của sản phẩm hoá chất bằng 1.88 lần , sản phẩm cơ khí bằng 1,3-1,8 lần , phân đạm bằng 2,35 lần. Mức tiêu hao nang lượng của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng cao hơn mức trung bình của các nước trên thế giới
VD: sản xuất giầy gấp 1,26 lần, hoá chất cơ bản bằng 1,44 lần than bằng 1,75 lần
Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước thấp và không ổn định :
Trung bình trong khu vực kinh tế nhà nước chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu ; 65%số sản phẩm đạt chất lượng dưới trung bình để tiêu dùng nội địa; 20%số sản phẩm kém chất lượng . Do đó hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động của toàn xã hội.
Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp.
VD: Hệ số sinh lời của vốn lưu động mang tính chất chung chỉ đạt 7% một năm trong đó nghành giao thông vận tải đạt 2% một năm…Hệ số sinh lời của vốn lưu động đạt 11% một năm, trong đó các nghành tương ứng ở trên đạt 9,4%; 10,6% và 9,5%.
Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp.
Cụ thể là mấy năm gần đây hàng năm nhà nước dành hơn 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho các doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên chúng chỉ tạo ra được từ 34 đến 35% tổng sản phẩm xã hội. Hơn nữa khu vực kinh tế nhà nước lại sử dụng hầu hết các lao động có trình độ ĐH, công nhân kỹ thuật, phần lớn số vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh.
Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm một tỷ trọng lớn:
Theo số liệu của tổng cục thống kê năm 1990, trong số 12084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4504 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm hơn 4584 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ ,chiếm hơn 30% tổng số doanh ngiệp nhà nước. Trong đó, quốc doanh trung ương có 501 cơ sở thua lỗ, bằng 29,6% số đơn vị do trung ương quản lý, quốc doanh địa phương có 4083 cơ sở thua lỗ chiếm 39,9% số đơn vị do địa phương qủan lý. Các đơn vị trên đây có giá trị tài sản bằng 32.9% số đơn vị do đia phương quản lý. Các đơn vị trên đây có giá trị tài sản cố định bằng 38% tổng giá trị tài sản của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước và với 787300 lao động trong tổng số 2590000 lao động, bằng 32,9% lao động của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước . các số liệu đó cho thấy việc làm ăn thua lỗ của các doanh ngiệp nhà nước đã gây tổn thất rất lớn cho ngân sách nhà nước và là một trong những đưa đến việc bội chi ngân sách nhà nước trong nhiều năm qua . thêm vào đó nhà nước lại có hàng loạt chính sách bù giá , bù lương bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt các khoản bao cấp khác cho các khoản vay nợ nhà nước ngày càng nặng nề và trầm trọng chỉ tính trong giai đoạn 1985-1990 tỷ lệ thâm hụt ngân sách thường xuyên ở trên mức 30%.
Từ năm 1989 đến nay ,nền kinh tế đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường:
Các chính sách về kinh tế , tài chính đối doanh ngiệp nhà nước đã được thay đổi theo hướng tự gio hoá giá cả. Chi phí ngân sách nhà nước bù lỗ, bù giá bổ sung vốn lưu động cho khu vực này giảm đáng kể. Tuy nhiên tư tưởng bao cấp trong đầu tư vấn còn rất nạng nề . tất cả các doanh nghiệp được thành lập đều được cấp ngân sách từ nhà nước. hàng năm trên 85%vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được dành cho cac doanh ngiệp nhà nước vay. Tài sản tiền vốn của nhà nước giao cho doanh ngiệp chủ yếu là không được bảo tồn và phát triển. Theo báo cáo của tổng cục thống kê, hầu hết cac doanh nghiệp nhà nước mới chỉ bảo tồn được vốn lưu động, còn vốn cố định thì mới chỉ bảo tồn ở mức 50% so chỉ số lạm phát hai nghành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp (72.52%) lại là hai nghành có tỷ lệ thất thoát lớn nhất (16.41%và 14,95% ) . vấn đề nợ nần vòng vo mất khả năng thanh toán còn xảy ra khá ngiêm trọng do vấn đề quản lý tài chính đối với doanh nghiệp chậm đổi mới , đồng thời nạn tham nhũng lãng phí diễn ra khá nghiêm trọng ,từ những hoạt động yếu kém của doanh ngiệp nhà nước
chúng ta thấy rằng vì sao lại cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, dó là tính tất yếu của quá trình phát triển các doanh nghiệp nhằm khắc phục nhứng yếu kém do doanh nghiệp nhà nước mắc phải.
5. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước:
Là để huy động vốn tạo điều kiện cho người lao động làm chủ thực sự trong doanh nghiệp tạo động lực bên ngoài thay đổi phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh ngiệp .
Về việc huy động vốn thì trong thời gian qua thì ngân sách nhà nước đã đầu tư một tỷ trọng vốn lớn cho các doanh nghiệp nhà nước nhưng hiệu quả thu lại rất thấp trong khi ngân sách nhà nước có hạn và phải dàn trải cho nhiều khoản chi tiêu khác . Qua số liệu điều tra năm 1995 ( tổng cuc thống kê ) cho thấy. Trong 6544 doanh nghiệp nhà nước (trong tổng số 7060 doanh nghiệp) đang hoạt động có 3268 doanh nghiệp thuộc dạng giải thể hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu, chiếm 49,95% số doanh nghiệp được nhà nước đầu tư. Để xử lý tình trạng thiếu vốn và tạo cơ chế quản lý tài chính có hiệu lực, thực sự rằng buộc trách nhiệm, trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước thì giải pháp cần làm là thực hiện cổ phầ hoá một số doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hoá cho phép tách quyền sở hữu và quyền quản lý tài sản của doanh nghiệp nhằm đưa lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Cổ phần hoá sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nguồn vốn dồi dào trong dân cư sẽ đổ vào nơi có lợi nhuận cao, làm cho các doanh nghiệp cổ phần hoá, ngày càng có vốn lớn từ đó có điều kiện trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, mở rộng sản xuất. Đồng thời nguồn vốn ngày càng đựoc sử dụng tốt. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu liên tục. Cổ phiếu có thể chuyển nhượng cho nhau sẽ thúc đẩy lưu thông tiền vốn.
Mặt khác doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để bổ xung thêm vốn khi cần thiết. Các doanh nghiệp khi đã cổ phần hoá sẽ liên doanh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước từ đó thu hút được nhiều vốn hơn nữa. Góp phần quan trọng nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo lực lượng lao động mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng hiệu quả vốn và tài sản của nhà nước và doanh nghiệp. Đồng thời phát huy vai trò làm chủ thực sự ngưòi lao động, của các cổ đông tăng cường sự giám sát nhà đầu tư đối doanh nghiệp, đảm bảo hài hoà lợi ích nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, và người lao động. Nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiẹp nhà nước gỉảm thâm hụt ngân sách nhà nước. Là những mục tiêu đầu tiên và trực tiếp tuy nhiên tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, quan điểm, của từng nước mà mục tiêu khác nhau.
6. Quy trình chung cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Thực tiễn và nhiều công trình nghiên cứu các nước chỉ ra rằng việc thực hiện cổ phần hoá gồm nhiều giai đoạn : chuẩn bị điều kiện về tổ chức, lựa chọn các mục tiêu , phương hướng thực hiện ,kiểm soát và điều chỉnh. Tuy nhiên các giai đoạn không có sư phân định rõ rệt nhưng nó có ỹ nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiến: khuyễn khích tính thận trọng với những giải pháp phù hợp dựa trên những điều kiện thực tế. Tính quá trình tỏ ra thích hợp với cả chính phủ đang cần có thời gian nắm bắt và kiểm soát, cũng như công chúng đang cần thời gian để tìm vào sự ổn định, lâu dài về chính sách của chính phủ. Ở việt nam chúng ta trong hoàn cảnh thiếu điều kiện quan trọng để thực hiện cổ phần hoá thì việc quán triệt quan điểm trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là cần thiết để chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí, muốn hoàn thành công việc này
trong một thời gian ngắn.
Như vậy, qua thực tiễn tiến hành công tác cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước ta, và qua kinh nghiệm cơ bản của một số nước xung quanh chúng ta thấy việc cổ phần hoá đáp ứng yêu cầu bức thiết của công cuộc cải cách các doanh nghiệp nhà nước phù hợp theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại là một quá trình lâu dài vừa làm vừa rút kinh ngiệm cụ thể, là công viêc hết sức phức tạp đòi hỏi thực hiện trong nhiều năm.
7. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
- Giai đoạn thí điểm : Cổ phần hóa ở Việt Nam được thực hiện theo đường lối thí điểm. Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số 143/HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990 lựa chọn một số doanh nghiệp nhỏ và vừa để thử chuyển đổi thành công ty cổ phần. Kết quả là có 2 doanh nghiệp trong năm 1990-1991 được cổ phần hóa. Năm 1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lại ra Quyết định số 202 ngày 8 tháng 6 năm 1992 yêu cầu mỗi bộ ngành trung ương và mỗi tỉnh thành chọn ra từ 1-2 doanh nghiệp nhà nước để thử cổ phần hóa.
Kết quả là đến tháng 4 năm 1996, có 3 doanh nghiệp nhà nước do trung ương quản lý và 2 doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý được cổ phần hóa. Trừ Công ty dịch vụ vận tải mà Nhà nước chỉ còn giữ 18% tổng số cổ phần, 4 công ty khác Nhà nước đều giữ khoảng 30% tổng số cổ phần. Các nhà đầu tư bên ngoài chỉ mua được cao nhất là gần 35% tổng số cổ phần trong trường hợp Công ty cổ phần Giày Hiệp An, còn lại đều ở khoảng 20%.
- Giai đoạn thí điểm mở rộng: Từ kinh nghiệm của 7 trường hợp cổ phần hóa nói trên, năm 1996 Chính phủ quyết định tiến hành thử cổ phần hóa ở quy mô rộng hơn. Nghị định 28/CP được Chính phủ ban hành ngày 7 tháng 5 năm 1996 yêu cầu các bộ, ngành trung ương và các chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập danh sách doanh nghiệp nhà nước do mình quản lý sẽ được cổ phần hóa cho đến năm 1997. Tinh thần của Nghị định 28/CP là chọn những doanh nghiệp mà Nhà nước thấy không còn cần thiết phải nắm giữ 100% vốn nữa làm đối tượng. Nghị định số 25/CP ngày 26 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ cho phép các lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có thêm quyền hạn trong việc tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp được chọn làm thử. Theo đó, đối với doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống thì lãnh đạo bộ, ngành, địa phương có quyền tự tổ chức thực hiện cổ phần hóa trên cơ sở Nghị định số 28/CP.
Kết quả của giai đoạn thí điểm cổ phần hóa mở rộng này là có 25 doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển thành công ty cổ phần.
- Giai đoạn đẩy mạnh: Sau hai giai đoạn cổ phần hóa thí điểm trên, Chính phủ quyết định chính thức thực hiện chương trình cổ phần hóa. Ngày 29 tháng 6 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này quy định rằng đối với cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp được chuyển đổi nhưng Nhà nước vẫn muốn nắm quyền chi phối, cá nhân không được phép mua quá 5% và pháp nhân không được phép mua quá 10%. Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm quyền chi phối, cá nhân được phép mua tới 10% và pháp nhân được phép mua tới 20% tổng cổ phần phát hành lần đầu. Riêng đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước hoàn toàn không còn muốn sở hữu, cá nhân và pháp nhân được phép mua không hạn chế. Tiền thu được từ bán cổ phần sẽ được sử dụng để đào tạo lại lao động, sắp xếp việc làm cho lao động dư thừa, bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước khác.
Sau khi Nghị định 44/1998/NĐ-CP được áp dụng cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2001, có 548 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa.
- Giai đoạn tiến hành ồ ạ