Đề tài Xây dựng giải pháp phát triển nấm mèo cho các vùng dân tộc thiểu số

Thực hiện mục tiêu giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Những năm qua đã có nhiều chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình giảm nghèo. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững, số hộ đã thoát nghèo nhưng mức thu nhập nằm sát chuẩn còn lớn, tỷ lệ tái nghèo hàng năm còn cao, đời sống người nghèo nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là khu vực miền núi, vùng cao và cùng dân tộc thiểu số. Tình hình trên trước hết do điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nên mặc dù Nhà nước luôn dành nguồn lực lớn cho giảm nghèo nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu; bên cạnh đó một số chương trình, chính sách giảm nghèo chưa đồng bộ, còn mang tính ngắn hạn, thiếu sự gắn kết chặt chẽ; cơ chế quản lý, chỉ đạo điều hành, phân công phân cấp còn chưa hợp lý, việc tổ chức thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở một số nơi chưa sâu sát.Ngoài ra, một bộ phận người nghèo còn tâm lý ỷ lại, chưa tích cực, chủ động vươn lên thoát nghèo. Để đời sống đồng bào dân tộc thiểu số phát triển bền vững, từng địa phương phải có những cách làm sáng tạo, cụ thể, thiết thực và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh sống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Từ những lý do trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Xây dựng giải pháp phát triển nấm mèo cho các vùng dân tộc thiểu số”, nhằm góp phần giúp đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo một cách bền vững.

doc41 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2219 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng giải pháp phát triển nấm mèo cho các vùng dân tộc thiểu số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC  MÔN: KỸ THUẬT TRỒNG NẤM ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NẤM MÈO CHO CÁC VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ GVHD: ThS. Nguyễn Minh Khang Sinh Viên Thực Hiện: Nguyễn Văn Dửng 08070395 Huỳnh Thị Ngọc Ánh 08070528 Lớp : 11SH04 Bình Dương, tháng 11 năm 2011 Mục lục DANH MỤC CÁC BẢNG 4 DANH MỤC CÁC HÌNH 4 Phần 1: MỞ ĐẦU 5 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ 5 1.2. NỘI DUNG 6 1.3. Ý NGHĨA 8 Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 9 2.1. SƠ LƯỢC VỀ GIỚI NẤM 9 2.1.1. Định nghĩa 9 2.1.2. Phân loại 9 2.2. NẤM MÈO 11 2.2.1. Đặc điểm của nấm mèo 11 2.2.2. Đặc tính sinh học 12 Phần 3: CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG NẤM MÈO - GIẢI PHÁP KINH TẾ 18 3.1. CÔNG NGHỆ 18 3.1.1. Trồng nấm mèo trên mùn cưa 18 3.1.2. Trồng nấm mèo trên thây cây gỗ 22 3.1.3. Nhà xưởng và lò sấy 29 3.2. GIẢI PHÁP KINH TẾ 32 3.2.1. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm 32 3.2.2. Dự toán vật liệu, nhân công 33 3.2.3. Tính toán hiệu quả kinh tế trong sản xuất 34 3.2.4. Đề xuất các giải pháp 36 Phần 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 39 4.1. KẾT LUẬN 39 4.2. KIẾN NGHỊ 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO 40 DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1 – Dự toán vật liệu, nhân công cho sản xuất nấm 31 Bảng 3.2 – Chi phí sản xuất nấm mèo, tính trên 1 tấn nguyên liệu 32 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1 – Nấm mèo 10 Hình 2.2 – Chu trình sống của nấm mèo 11 Hình 3.1 – Búa dùng để đục lỗ 21 Hình 3.2 – Vị trí lỗ đục trên thân cây gỗ 22 Hình 3.3 – Cách xếp gỗ để ủ sau khi đã cấy giống 23 Hình 3.4 – Cách sắp xếp các đoạn gỗ như kiểu giá súng 25 Hình 3.5 – Kiểu nhà bình thường 27 Hình 3.6 – (a) lò sấy mini và các sàn sấy; (b) lớp bao phủ lò sấ bằng bìa cát tông 29 Bảng 3.1 – Dự toán vật liệu, nhân công cho sản xuất nấm 31 Bảng 3.2 – Chi phí sản xuất nấm mèo, tính trên 1 tấn nguyên liệu 32 Phần 1 MỞ ĐẦU . ĐẶT VẤN ĐỀ Thực hiện mục tiêu giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Những năm qua đã có nhiều chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình giảm nghèo. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững, số hộ đã thoát nghèo nhưng mức thu nhập nằm sát chuẩn còn lớn, tỷ lệ tái nghèo hàng năm còn cao, đời sống người nghèo nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là khu vực miền núi, vùng cao và cùng dân tộc thiểu số. Tình hình trên trước hết do điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nên mặc dù Nhà nước luôn dành nguồn lực lớn cho giảm nghèo nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu; bên cạnh đó một số chương trình, chính sách giảm nghèo chưa đồng bộ, còn mang tính ngắn hạn, thiếu sự gắn kết chặt chẽ; cơ chế quản lý, chỉ đạo điều hành, phân công phân cấp còn chưa hợp lý, việc tổ chức thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở một số nơi chưa sâu sát..Ngoài ra, một bộ phận người nghèo còn tâm lý ỷ lại, chưa tích cực, chủ động vươn lên thoát nghèo. Để đời sống đồng bào dân tộc thiểu số phát triển bền vững, từng địa phương phải có những cách làm sáng tạo, cụ thể, thiết thực và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh sống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Từ những lý do trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Xây dựng giải pháp phát triển nấm mèo cho các vùng dân tộc thiểu số”, nhằm góp phần giúp đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo một cách bền vững. 1.2. NỘI DUNG Xây dựng mô hình nuôi trồng, xử lý và chế biến nguyên liệu cho bà con dân tộc thiểu số, bao gồm: Nguyên liệu: Tận dụng nhiều loại phế liệu, phế phẩm của nông nghiệp, ngoài ra còn có thể chế biến nguyên liệu thích hợp cho nhu cầu của nấm mèo, vừa giảm giá thành sản xuất, vừa giải quyết hợp lý nguồn tài nguyên này. Phế liệu sau trồng nấm: Tận dụng phế liệu sau trồng nấm để nuôi trùn (giun đất), ngoài việc thu được sinh khối trùn phục vụ cho chăn nuôi, còn nhận được lượng lớn phân trùn phục vụ trở lại cho trồng trọt. Việc làm này nhằm tăng tính hiệu quả và hoàn thiện công nghệ trồng nấm, còn giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do quá trình trồng nấm tạo ra. Chế biến nguyên liệu trồng nấm: Trong thiên nhiên, hầu như tất cả các xác bã thực vật từ cành cây, chiếc lá, rơm rạ, cọng cỏ, vỏ hạt sen, bẹ chuối khô, xác mía đến bèo, lục bình, ... đều có thể trồng nấm. Tuy nhiên không phải nguyện liệu nào nấm cũng sử dụng được hoặc cho năng suất cao. Như vậy, việc chọn nguyên liệu thích hợp với nấm mèo cũng góp phần tăng tính hiệu quả cho nuôi trồng nấm. Ngoài chủng loại nguyên liệu, thì việc chế biến thích hợp cũng làm tăng năng suất nấm mèo. Quá trình chế biến nguyên liệu trồng nấm bao gồm nhiều công đoạn với sự tham gia của các yếu tố khác nhau, vừa sinh học (vi sinh vật) vừa không sinh học (hóa học, vật lý). Về biện pháp nuôi trồng: Cung cấp các kỹ thuật trong khâu xử lý nguyên liệu, chăm sóc và thu hái nấm, đặc biệt là cách phòng trừ sâu bệnh hại nấm. Chuyển giao quy trình sản xuất nấm ở quy mô trang trại nấm và làng nấm. Giải pháp về công nghệ chế biến: Chuyển giao các công nghệ chế biến có chất lượng cao và và quy mô phù hợp như sấy khô, muối, đóng hộp… đến tận tay người nông dân. Tổ chức hệ thống thu mua, chế biến tập trung sản phẩm nấm ở các dạng nấm tươi, sấy khô, muối đảm bảo đầu ra cho bà con nông dân. Cung cấp các công nghệ xử lý chất thải trong sản xuất nấm nhằm nâng cấp hiệu quả kinh tế và tạo ra nguồn phân bón hữu cơ phục vụ sản xuất. Công tác thị trường: Tăng cường tuyên truyền , mở rộng thị trường trong nước, tập trung chủ yếu vào sản xuất thị trường nội tiêu nhằm mở rộng phạm vi tiêu thụ sản phẩm nấm tươi, tạo điều kiện để kích thích sản xuất. Giải pháp về chính sách: Tạo điều kiện thuận lợi để liên kết các doanh nghiệp sản xuất chế biến và tiêu thụ nấm. Đặc biệt chú ý đến loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại địa phương và các doanh nghiệp nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài trong lĩnh vực này. Có chính sách biện pháp hỗ trợ trong đào tạo cán bộ, sử dụng cán bộ đã được đào tạo nhằm chuyển giao khoa học kỹ thuật đến người nông dân. Tạo điều kiện để con em đồng bào được học tập tại các trường đại học, cao đẳng, các trường dạy nghề để nâng cao dân trí, phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững. 1.3. Ý NGHĨA Tạo việc làm, tăng thêm thu nhập, ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, tạo điều kiện cho các hộ nghèo trên địa bàn thoát nghèo một cách bền vững. Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. SƠ LƯỢC VỀ GIỚI NẤM 2.1.1. Định nghĩa Nấm không phải là thực vật do nó không có khả năng quang hợp, không có lục lạp, không có sự phân hóa thành rễ thân lá, không có hoa, không có một chu trình phát triển cụ thể như ở thực vật. Vách tế bào của nấm là chitin và glucan chứ không phải là cellulose như ở tế bào thực vật. Ngoài ra, đường dự trữ của nấm là glycogen chứ không phải tinh bột. Nấm chỉ có thể hấp thu chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể từ cơ thể khác hay từ đất thông qua bề mặt tế bào hệ sợi nấm. Nhưng nấm cũng không phải là động vật. Vì nấm lấy dinh dưỡng qua sợi nấm như rễ cây, và sinh sản bằng kiểu tạo bào tử (hữu tính và vô tính) không có ở động vật. Vì vậy, nấm được xếp vào một giới riêng gọi là giới nấm (MYCOTA – theo Robert H. Whittaker, 1969 ). 2.1.2. Phân loại Từ khi bắt đầu có những nghiên cứu chuyên sâu về nấm học có rất nhiều hệ thống phân loại nấm được đưa ra. Bên cạnh rất nhiều ý kiến bác bỏ thì cũng có những ý kiến được công nhận. Chính những hệ thống phân loại đó đã đóng góp vào kho tàng nghiên cứu của ngành nấm học. Hiện nay, trong các nghiên cứu về nấm người ta thường dựa vào các hệ thống phân loại sau: Năm 1969 nhà khoa học người Mỹ R.H.Whitaker đã đưa ra hệ thống phân loại 5 giới (Kingdom): Giới Khởi sinh (Monera): Gồm vi khuẩn và tảo vi khuẩn lam Giới Nguyên sinh (Protista): Gồm một số tảo đơn bào, nấm đơn bào có khả năng di động nhờ lông roi (tiên mao) và các động vật nguyên sinh Giới nấm (Fungi hay Mycetalia, Mycota) Giới thực vật (Plantae hay Vegetabilia) Giới động vật (Animalia) Năm 1973 nhà khoa học A.L.Takhtadjan đưa ra hệ thống phân loại như sau: Giới Mycota: gồm vi khuẩn và vi khuẩn lam Giới nấm Giới thực vật Giới động vật Phân loại nấm hiện đại bao gồm các ngành và ngành phụ như sau: (Allexopolous, 1962) Ngành nấm nhầy (Myxomycota): Loài nấm này có cả hai tính chất động vật và thực vật, chúng sinh sản bằng bào tử, nhưng tế bào lại là khối sinh chất không có vách ngăn bao bọc, di chuyển và nuốt thức ăn như động vật (amib). Ngành nấm thật (Eumycotina): Chiếm số lượng lớn, bao gồm các tế bào với nhân tương đối hoàn chỉnh. Tế bào nấm có vách bao bọc như tế bào thực vật, đa số cấu tạo bởi chitin. Nhiều tế bào nấm còn tích trữ đường ở dạng glycogen, giống như động vật. Một số loài sinh sản theo lối tạo những giao tử có lông roi để di động (động bào tử), nhưng hợp tử lại phát triển theo 1 kiểu chung của nấm. Dựa theo sự sinh sản hữu tính, các nhà phân loại đã chia chúng thành các ngành phụ như sau: Ngành phụ nấm tiên mao (Mastigomycotina) Ngành phụ nấm tiếp hợp (Zygomycotina) Ngành phụ nấm túi (Ascomycotina) Ngành phụ nấm đảm (Basidiomycotina) Ngành phụ nấm bất toàn (Deuteromycotina) 2.2. NẤM MÈO 2.2.1. Đặc điểm của nấm mèo Nấm mèo có tên khoa học chung là Auricularia sp. thuộc chi Auricularia. Nấm mèo còn có tên gọi khác là Mộc nhĩ. Nấm mèo có nhiều loài khác nhau, phân bố khắp các châu lục trên thế giới. Ở Việt Nam, người ta nuôi trồng chủ yếu 2 loại: loại cánh mỏng có màu huyết dụ (A. auricula) và loại cánh dày có màu đen (A. polytricha). Cánh nấm mèo mỏng, dẹp, có cuống đính vào giá thể. Cuống này rất ngắn, giữ cho cánh nấm mèo đeo được trên giá thể. Khi còn tươi hoặc khi ngâm ẩm, nấm mèo mềm mại. Khi để khô, chúng lại giòn. Tuy nhiên, vì cánh nấm mèo chính là một khối keo cho nên chúng có khả năng biến đổi. Vì vậy, khi đã lỡ ngâm nấm mèo vào nước, vẫn có thể đưa ra phơi khô để giữ lại như thường. Cây nấm lúc mới hình thành có hình chén, sau phát triển lên và dần dần có hình cái tai hoặc hình lá. Phần lớn cây nấm có hình phẳng, nhẵn, rất ít khi có nếp nhăn. Bộ phận gốc thường có nếp gấp màu sẫm đỏ, nhiều khi có màu tím. Đường kính mũ nấm có khi khá lớn đến 15cm.  Hình 2.1 – Nấm mèo Nấm mèo thường có màu từ nâu hồng tới nâu đen. Khi khô, phân biệt rõ hai mặt trên, dưới. Mặt trên thường có một lớp lông mịn nhỏ li ti. Mặt dưới chứa các bào tử. Khi nấm mèo đã già, bào tử có thể phát tán đi theo gió. Tới chỗ nào thuận lợi chúng sẽ mọc ra khuẩn ty và rồi sẽ hình thành nấm mèo. Vì vậy, ở trong rừng (nơi vừa ẩm vừa nhiều nguồn cellulose) thường có nhiều nấm mèo. Ở nấm mèo có một hệ men cellulase rất khỏe, có thể phân hủy gỗ để làm thức ăn nuôi chúng. Nấm mèo thường mọc hoang trên những cành cây, cành gỗ đã khô chết. Vì vậy, ở đâu giàu cellulose và lignin thì nấm mèo rất ưa mọc khi chúng gặp ẩm. Do đó, ta có thể trồng nấm mèo trên mùn cưa, thân cây gỗ, vỏ dừa, lỗi ngô, rơm rạ… 2.2.2. Đặc tính sinh học 2.2.2.1. Chu trình sống Chu trình sống của nấm mèo bắt đầu từ các đảm bào tử nẩy mầm, đến khi hình thành tai nấm hoàn chỉnh mang đảm bào tử mới.  Hình 2.2 – Chu trình sống của nấm mèo Quả thể nấm mèo phát triển qua các giai đoạn: nụ nấm (hay hạch nấm), hình tách, hình chén, hình đĩa, trưởng thành. Nấm mèo là một loại nấm phá gỗ, do đó có thể trồng trên các loại cơ chất giàu cellulose như: mùn cưa, thân cây gỗ, vỏ dừa, lõi ngô, rơm rạ,… 2.2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của nấm mèo Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp nhất để nấm mèo phát triển là 20- 300C. Khi nhiệt độ lên trên 350C hoặc xuống dưới 150C thì nấm mèo phát triển kém và cho năng suất thấp. Nhiệt độ không khí cao hơn 320C: nấm mọc thưa và cánh mỏng, cây nhỏ, mép xoăn. Nhiệt độ thấp: nấm có cánh dày nhưng cây nhỏ và lông rất dài. ---> Vì vậy, phải hết sức chú ý tới việc đảm bảo nhiệt độ để nuôi trồng nấm mèo. Độ ẩm: Độ ẩm của giá thể nên giữ khoảng 60- 65%. Độ ẩm không khí của nhà nuôi trồng nấm mèo đảm bảo 90 - 95%. Độ thông thoáng: Trong giai đoạn nuôi sợi, cần đảm bảo không khí thông thoáng, tránh giữ nấm trong những nơi kín, bí hơi. Giai đoạn ra quả thể cần giữ cho độ thoáng ở mức độ vừa phải. Nếu để thông khí mạnh sẽ làm cho nấm mèo phát triển chậm, cánh mỏng, thậm chí có thể chết. Ánh sáng: Giai đoạn nuôi sợi: cần để nấm trong tối. Giai đoạn hình thành quả thể: nâng dần độ chiếu sáng để kích thích quá trình tạo quả thể. Khi nấm đã mọc mạnh cần giữ mức sáng ở ngưỡng trong phòng có mở cửa. Nếu cường độ chiếu sáng quá mạnh thì nấm sẽ có màu trắng nhạt và mọc kém. Vì vậy, ta có thể nhìn màu của cánh nấm mèo để điều chỉnh độ chiếu sáng cho thích hợp. Cánh nấm mèo có màu hồng thịt là tốt nhất. pH pH môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng của nấm mèo là từ 4 - 12. Ở giai đoạn nuôi sợi cần môi trường axit yếu (pH= 4-6). Tới giai đoạn ra quả thể thì chúng ưa pH trung tính hoặc kiềm (pH= 7-12). Độ pH không ảnh hưởng nhiều đến phát triển của nấm nhưng rất có ý nghĩa đối với tích lũy năng suất của nấm. 2.2.3. Giá trị của nấm mèo Trong nấm mèo khô có 10% nước, 9-10% protein, 0.2%lipid, 58.5% gluxit, 6.3% cellulose, 5.2% tro. Trong 100g nấm có 321.3 mg canxi, 180.9 mg P, 0.03 mg caroten, 0.14 mg vitamin B1, 0.5 mg vitamin B2, 2.4 mg vitamin PP. Theo y học cổ truyền thì nấm mèo tính ngọt bình, đi vào các kinh tỳ vị, đại tràng, can, thận. Tác dụng lương huyết, làm ngừng chảy máu do va đập, bị thương. Chữa trị các bệnh trường phong, hạ huyết, nhuận táo, lợi trường vị, lỵ ra máu, đái rắt, đái ra máu, trị lở, bổ khí, bền cơ, hoạt huyết. Theo các nhà khoa học, ăn nấm mèo sẽ giúp ngăn chặn được các bệnh tắc hoặc vỡ mạch máu ở người tăng huyết áp, hạn chế tai biến, nhồi máu cơ tim; giúp máu lưu thông hơn nên duy trì trí nhớ tốt. Nấm mèo là loại gia vị thực phẩm quý, giúp món ăn thêm ngon miệng và có giá trị dinh dưỡng, lại là vị thuốc chữa các bệnh: xuất huyết, băng lậu và bệnh đại tiểu tiện có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu sử dụng nấm mèo không đúng cách sẽ làm nấm mất ngon, thậm chí còn gây tác hại. Vì vậy khi chế biến cần chú ý: Không ngâm nấm mèo khô bằng nước nóng. Không ăn nấm mèo tươi. Các đơn thuốc từ nấm mèo: - Nấm mèo 15 - 30g, ngâm nước ấm cho nở, rửa sạch, hầm nhừ, chế thêm một chút đường trắng, ăn trong ngày. Công dụng: Dưỡng âm chỉ huyết, thường dùng để phòng chống các chứng xuất huyết. - Nấm mèo 60g, Huyết dư thán 10g. Nấm mèo sao tới khi bốc khói là được, hai thứ tán bột, trộn đều, mỗi ngày uống 6 – 10g với nước ấm hoặc có pha một chút giấm thanh. Công dụng: Tán ứ chỉ huyết, dùng cho phụ nữ bị băng lậu (băng là băng huyết, băng kinh; lậu là rong huyết, rong kinh). - Nấm mèo 5g, Đại táo 5 quả, Gạo tẻ 100g, Đường phèn vừa đủ. Nấm mèo ngâm nước ấm, rửa sạch; Đại táo bỏ hạt. Hai thứ đem nấu với gạo thành cháo, chế thêm Đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Tư âm nhuận phế, kiện tỳ chỉ huyết, bổ não cường tim và kháng ung, dùng thích hợp cho những người bị ho lâu ngày, cơ thể suy nhược, thổ huyết, kinh nguyệt không đều, cao huyết áp, bệnh mạch vành tim, vữa xơ động mạch, ung thư… - Nấm mèo 60g, Vừng đen 15g. Nấm mèo một nửa sao cháy, một nửa sao khô, Vừng đen sao thơm, tất cả tán vụn trộn đều, mỗi ngày lấy 6g hãm với 120ml nước sôi, uống thay trà. Công dụng: Tư bổ can thận, kiện não ích trí, dùng lâu rất có lợi cho sức khoẻ. - Nấm mèo 200g, Hồng táo 100g, Đường phèn 250g. Nấm mèo ngâm nước ấm cho nở, rửa sạch, đem hầm với Hồng táo trong 2000ml nước cho thật nhừ, chế thêm Đường phèn, chia làm 7 phần, mỗi ngày ăn 1 phần, chia 2 lần sáng và chiều. Công dụng: Bổ thận chỉ huyết, dùng cho phụ nữ xuất huyết tử cung cơ năng thuộc thể thận hư. - Nấm mèo 15g, Hồng táo 30 quả. Hai thứ đem hầm nhừ, ăn trong ngày. Công dụng: Dưỡng huyết điều kinh, dùng cho người bị thiếu máu, phụ nữ bị băng lậu và khí hư. - Nấm mèo 30g, Đường đỏ 20g. Mộc nhĩ ngâm nước ấm, rửa sạch, nấu nhừ rồi cho đường đỏ vào, đánh nhuyễn, chia ăn 2 lần trong ngày. Công dụng: Lương huyết chỉ huyết, giáng áp, dùng thích hợp cho người bị xuất huyết tử cung cơ năng và cao huyết áp. - Nấm mèo và Biển đậu lượng bằng nhau, sấy khô tán bột, mỗi ngày uống 9g. Công dụng: Phòng chống bệnh tiểu đường. - Nấm mèo 30g, Hoa hiên 120g, Đường trắng vừa đủ. Hai thứ rửa sạch, nấu thành canh, chế thêm đường, ăn nóng. Công dụng: Lợi thuỷ thông lâm, dùng cho người bị đái ra máu (huyết lâm). - Nấm mèo 6g, thịt lợn nạc 50g, Phật thủ 9g, ý dĩ 20g. Mộc nhĩ ngâm nước ấm, rửa sạch; thịt lợn thái miếng; phật thủ thái phiến. Tất cả đem nấu thành canh ăn trong ngày. Công dụng: Tuyên tý thông dương, hoạt huyết hoá ứ, dùng cho những người bị bệnh lý động mạch vành tim. - Nấm mèo sấy khô nghiền thành bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 5 - 10g với Đường đỏ. Công dụng: Trị liệu xuất huyết tử cung cơ năng. - Nấm mèo 30g, Dạ dày lợn 1 cái. Nấm mèo ngâm nước ấm, rửa sạch; Dạ dày lợn làm sạch; hai thứ đem nấu chín, chế thêm gia vị, ăn trong ngày, dùng liên tục 3 - 5 ngày. Công dụng: Trị chứng đi tiểu nhiều lần. - Nấm mèo 20g, ngâm nước ấm, rửa sạch, nấu với 20g Đường phèn, lấy nước uống trong ngày hoặc nấu cháo với Gạo nếp và hạt Sen ăn. Công dụng: Phòng chống bệnh viêm phế quản mạn tính và chứng giảm bạch cầu trong máu ngoại vi. - Nấm mèo 5g, Đậu phụ 200g, hai thứ nấu thành canh ăn thường xuyên hoặc Nấm mèo 6g nấu với Đường phèn lấy nước uống trước khi đi ngủ. Công dụng: Phòng chống bệnh cao huyết áp. Ngoài ra, mỗi ngày ăn thường xuyên từ 10 - 20g Nấm mèo đen có thể phòng chống hữu hiệu tình trạng táo bón. Phần 3 CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG NẤM MÈO - GIẢI PHÁP KINH TẾ 3.1. CÔNG NGHỆ 3.1.1. Trồng nấm mèo trên mùn cưa Nguyên liệu và cách xử lý: Nấm mèo có thể trồng được trên các loại mùn cưa khác nhau. Tuy nhiên, loại mùn cưa tốt nhất để trồng là mùn cưa gỗ bồ đề ở các nhà máy diêm và mùn cưa cây cao su. Không được dùng mùn cưa các loại cây có chất độc và các loại mùn cưa đã có nấm mốc. Mùn cưa thu về phơi thật khô, cất giữ để sử dụng dần. Khi chuẩn bị nuôi trồng nấm, thường phun nước lên mùn cưa để nâng độ ẩm lên đến 65-70%. Trộn thêm vào mùn cưa phân đạm urê hoặc phân sunphat amon với tỉ lệ 0.5-1.0% và đường saccaro với tỉ lệ 0.5% so với trọng lượng khô của mùn cưa. Mùn cưa sau khi trộn thêm các chất được ủ lại thành đống. Mỗi đống khoảng 500kg trở lên. Ở phía dưới đống mùn cưa ủ nên lót một lớp vật liệu để dễ thoát nước. Nếu ở ngoài trời nên có nilon để che mưa. Thời gian ủ thường là 30-45 ngày. Cứ 10 ngày lại đảo đống mùn cưa ủ một lần. Đống ủ cần được đảo đều trên xuống dưới, dưới lên trên, trong ra ngoài, ngoài vào trong. Việc đảo trộn tạo điều kiện cho tập đoàn vi sinh vật trong đống mùn cưa ủ hoạt động mạnh, phân hủy nhanh các lớp chất hữu cơ phức tạp. Sau khi ủ xong, lấy mùn cưa ra và cho vào các túi nilon chịu nhiệt. Túi nilon để dồn mùn cưa không làm bằng các loại túi nilon thường vì khi đem hấp chúng sẽ bị biến dạng và thủng. Chúng có thể có các kích cỡ khác nhau: Loại 20 x 37 cm chứa được 1.3-1.5 kg mùn cưa ẩm Loại 25 x 40 cm chứa được 1.5-1.8 kg mùn cưa ẩm Loại 25 x 50 cm chứa được 2.5-3 kg mùn cưa ẩm Túi nilon cần chuẩn bị trước, cẩn thận có thể gắn dính 2 góc mép đáy túi lại. Mùn cưa không được dồn đầy tràn mà để chừa ở phía trên 5-7cm để luồn cổ bịch, sau đó túm đầu túi nilon và cho luồn qua cổ bịch, bẻ quặt xuống để cổ bịch nằm giữa 2 lớp nilon. Dùng dây thun buộc chặt cổ bịch, lấy bông không thấm nước vo tròn thành nút và nút chặt vào cổ bịch, lấy giấy báo chùm lên nút và buộc lại. Các túi nilon chứa mùn cưa được đưa vào nồi hấp cách thủy. Mục đích của việc hấp các túi nilon chứa mùn cưa là để tiêu diệt các bào tử và các loại vi sinh vật tồn tại trong mùn cưa. Đơn giản nhất là đưa các túi nilon vào thùng phy để hấp. Thời gian hấp kéo dài khoảng 3-4 giờ kể từ lúc nhiệt độ trong lớp mùn cưa lên đến 95-1000C. Nếu có nồi áp suất thì nâng nhiệt độ lên 120-1250C và hấp trong thời gian 90-120 phút. Cần đảm bảo thời gian hấp để có thể khử trùng hoàn toàn. Cấy giống và ươm nấm: Sau khi hấp xong, cá
Luận văn liên quan