Chúng ta đều biết rằng quá trình phát triển của Vật lý học cũng như các
môn khoa học khác là một quá trình tiến lên từ cái chưa biết đến cái đã biết, từ
những tri thức chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ đến những tri thức ngày càng hoàn
chỉnh và chính xác hơn. Nói cách khác, quá trình hình thành các tri thức khoa
học là một quá trình có tính lịch sử. Mỗi khoa học nói chung và Vật lý học nói
riêng đều có quá trình hình thành và phát triển riêng của mình. Bộ môn vật lý
phản ánh lại quá trình đó được gọi là môn lịch sử vật lý – một môn học có ý
nghĩa quan trọng đối với sinh viên khoa vật lý các trường sư phạm.
Trong chương trình học ở đại học, em đã được học môn lịch sử vật lý ở năm
thứ ba. Em cảm thấy đây là một môn học rất quan trọng và thú vị. Vì vậy, em
đã quyết định chọn đề tài luận văn: “Xây dựng một số câu hỏi trắc nghiệm về
lịch sử vật lý” với hy vọng có điều kiện ôn tập và nghiên cứu kỹ hơn các kiến
thức về lịch sử vật lý mà em đã được học, qua đó giúp em hiểu sâu hơn các kiến
thức vật ký học, nhằm giảng dạy cho học sinh tốt hơn.
72 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng một số câu hỏi trắc nghiệm về lịch sử vật lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA VẬT LÝ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
XÂY DỰNG MỘT SỐ CÂU HỎI
TRẮC NGHIỆM VỀ LỊCH SỬ
VẬT LÝ
GVHD : Th.S NGUYỄN THỊ THẾP
SVTH : NGƠ THỊ DIỆU HIỀN
KHĨA : K30
TP.HCM, THÁNG 05 NĂM 2008
Luận văn tốt nghiệp SVTH: Ngô Thị Diệu Hiền
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng ta đều biết rằng quá trình phát triển của Vật lý học cũng như các
môn khoa học khác là một quá trình tiến lên từ cái chưa biết đến cái đã biết, từ
những tri thức chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ đến những tri thức ngày càng hoàn
chỉnh và chính xác hơn. Nói cách khác, quá trình hình thành các tri thức khoa
học là một quá trình có tính lịch sử. Mỗi khoa học nói chung và Vật lý học nói
riêng đều có quá trình hình thành và phát triển riêng của mình. Bộ môn vật lý
phản ánh lại quá trình đó được gọi là môn lịch sử vật lý – một môn học có ý
nghĩa quan trọng đối với sinh viên khoa vật lý các trường sư phạm.
Trong chương trình học ở đại học, em đã được học môn lịch sử vật lý ở năm
thứ ba. Em cảm thấy đây là một môn học rất quan trọng và thú vị. Vì vậy, em
đã quyết định chọn đề tài luận văn: “Xây dựng một số câu hỏi trắc nghiệm về
lịch sử vật lý” với hy vọng có điều kiện ôn tập và nghiên cứu kỹ hơn các kiến
thức về lịch sử vật lý mà em đã được học, qua đó giúp em hiểu sâu hơn các kiến
thức vật ký học, nhằm giảng dạy cho học sinh tốt hơn. Mặt khác, quá trình
soạn các câu trắc nghiệm sẽ giúp em rèn luyện và nâng cao kỹ năng soạn các câu
hỏi trắc nghiệm phục vụ cho quá trình giảng dạy của bản thân sau này.
Trong quá trình hoàn thành luận văn, mặc dù em đã hết sức cố gắng tham
khảo nhiều tài liệu, nhưng do Lịch sử vật lý là một bộ môn có phạm vi kiến thức
rất rộng, cũng như kỹ năng soạn thảo các câu trắc nghiệm của em còn nhiều hạn
chế, nên chắc chắn luận văn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến quý báu của giáo viên hướng dẫn và các thầy cô trong khoa.
Tháng 5 năm 2008
Sinh viên thực hiện
Ngô Thị Diệu Hiền
Luận văn tốt nghiệp SVTH: Ngô Thị Diệu Hiền
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG
Luận văn tốt nghiệp SVTH: Ngô Thị Diệu Hiền
I. TỰ LUẬN VÀ TRẮC NGHIỆM
KHÁCH QUAN
1. Trắc nghiệm:
Là một dụng cụ hay một phương thức hệ thống nhằm đo lường thành tích của
một cá nhân so với các cá nhân khác hay so với một yêu cầu, nhiệm vụ học tập đã được
dự kiến.
Trong lĩnh vực giáo dục, thường dùng chữ “trắc nghiệm thành quả học tập” hay
“trắc nghiệm thành tích”. Trong trường học, từ “trắc nghiệm” được dùng như một hình
thức kiểm tra, đánh giá học sinh. Tại Việt Nam, các tài liệu thường ghi là “trắc nghiệm
khách quan”, khơng phải hiểu theo nghĩa đối lập với một đo lừong chủ quan nào, mà nên
hiểu là hình thức kiểm tra này cĩ tính khách quan cao hơn cách kiểm tra, đành giá bằng
tự luận chẳng hạn.
Các điểm số thu thập được từ một bài trắc nghiệm thành tích cĩ thể cung cấp hai
loại thơng tin:
+ Loại thứ nhất: mức độ người học thực hiện được tiêu chí đã được ấn định,
khơng cần biết người ấy giỏi hơn hay kém hơn những người khác.
+ Loại thứ hai: sự xếp hạng tương đối của các cá nhân liên quan đến mức độ thực
hiện của họ về bài trắc nghiệm đã ra.
2. Một số khác biệt và tương đồng giữa tự luận và trắc nghiệm:
Trong cuốn sách về trắc nghiệm thành quả học tập xuất bản năm 1965, Robert L.
Ebel đã nêu lên 9 điểm khác nhau và bốn điểm tương đồng giữa tự luận và trắc nghiệm.
Tất nhiên với sự tiến bộ về mặt kỹ thuật trong lĩnh vực trắc nghiệm và đo lường, những
sự khác biệt về hai loại cĩ thể sẽ giảm đi và những sự tương đồng tăng lên. Dẫu sao,
những điểm nêu ra dưới đây cũng cĩ thể giúp cho ta cĩ một số ý niệm khái quát về trắc
nghiệm và phân biệt được nĩ với loại tự luận vốn quen thuộc ở các lớp học của ta từ xưa
đến nay.
* Những điểm khác nhau giữa trắc nghiệm và tự luận:
(1) Một câu hỏi thuộc loại tự luận địi hỏi thí sinh phai tự mình soạn câu trả lời
và diễn tả nĩ bằng ngơn ngữ của chính mình. Mặt khác, một câu hỏi trắc nghiệm buộc thí
sinh phải lựa chọn câu trả lời đúng nhất trong một số câu đã cho sẵn.
(2) Một bài tự luận gồm số câu hỏi tương đối ít và tính cách tổng quát, địi hỏi thí
sinh phải triển khai câu trả lời bằng lời lẽ dài dịng, trong khi một bài trắc nghiệm thường
gồm nhiều câu hỏi cĩ tính cách chuyên biệt chỉ địi hỏi những câu trả lời ngắn gọn.
(3) Trong khi làm một bài tự luận, thí sinh phải bỏ phần lớn thời gian để suy nghĩ
và viết. Mặt khác, trong khi làm một bài trắc nghiệm,thí sinh dùng nhiều thời giờ để đọc
và suy nghĩ.
(4) Chất lượng của một bài trắc nghiệm được xác định một phần lớn do kỹ năng
của người soạn thảo bài trắc nghiệm ấy; ngược lại, chất lượng của một bài tự luận tùy
thuộc chủ yếu vào kỹ năng của người chấm bài.
Luận văn tốt nghiệp SVTH: Ngô Thị Diệu Hiền
(5) Một bài thi theo lối tự luận tương đối dễ soạn nhưng khĩ chấm và khĩ cho
điểm chính xác; trong khi bài trắc nghiệm khĩ soạn, nhưng việc chấm và cho điểm tương
đối dễ dàng và chính xác hơn.
(6) Với loai tự luận, thí sinh cĩ nhiều tự do bộc lộ cá tính của mình trong câu trả
lời, và người chấm bài cũng tự do cho điểm các câu trả lời theo xu hướng riêng của mình.
Mặt khác, với một bài trắc nghiệm, người soạn thảo cĩ nhiều tự do bộc lộ kiến thức và
các giá trị của mình qua việc đặt câu hỏi, nhưng chỉ cho thí sinh quyền tự do chứng tỏ
mức hiểu biết của mình qua tỉ lệ câu trả lời đúng.
(7) Trong các câu hỏi trắc nghiệm, nhiệm vụ học tập của người học, và cơ sở trên
đĩ giám khảo thẩm định mức độ hồn thành các nhiệm vụ đĩ, được phát biểu một cách
rõ ràng hơn là trong các bài tự luận.
(8) Một bài trắc nghiệm cho phép, và đơi khi khuyến khích sự phỏng đốn.
Ngược lại, một bài tự luận cho phép, và đơi khi khuyến khích sự “lừa phỉnh” (chẳng hạn
như bằng những ngơn từ hoa mỹ hay bằng cách đưa ra những bằng chứng khĩ cĩ thể xác
định được).
(9) Sự phân bố điểm số của một bài thi tự luận cĩ thể được kiểm sốt một phần
lớn do người chấm (ấn định điểm tối đa và tối thiểu). Ngược lại, với bài trắc nghiệm thì
phân bố điểm số thí sinh hầu như hồn tồn được quyết định do bài trắc nghiệm.
* Những điểm tương đồng giữa trắc nghiệm và tự luận:
(1) Trắc nghiệm hay tự luận đều cĩ thể đo lường hầu hết mọi thành quả học tập
quan trọng mà một bài khảo sát bằng lối viết cĩ thể khảo sát được.
(2) Dù là trắc nghiệm hay tự luận, tất cả đều cĩ thể được sử dụng để khuyến
khích học sinh học tập nhằm đạt đến các mục tiêu: hiểu biết các nguyên lý, tổ chức và
phối hợp các ý tưởng, ứng dụng kiến thức trong việc giải quyết các vấn đề.
(3) Cả hai loại, trắc nghiệm và tự luận, đều địi hỏi sự sử dụng ít nhiều phán đốn
chủ quan.
(4) Giá trị của cả hai loại trắc nghiệm và tự luận, tùy thuộc vào tính khách quan
và đáng tin cậy của chúng.
3. Những điều lợi và bất lợi của trắc nghiệm khách quan.
a. Trắc nghiệm khuyến khích sự đốn mị?
Một trong những chỉ trích mạnh mẽ nhất về trắc nghiệm là thí sinh cĩ thể đốn
mị các câu trả lời trên một bài trắc nghiệm khách quan. Nếu đĩ là một bài trắc nghiệm
ngắn và gồm tồn những câu cĩ hai lựa chọn: Đúng – Sai, thì thí sinh ấy cĩ cơ may đạt
được điểm tối đa, hồn tồn bằng lối đốn mị, một lần trong hàng ngàn lần thử. Nếu thí
sinh ấy khơng chuẩn bị tốt cho kỳ thi, và nếu bài trắc nghiệm quá khĩ, thì thí sinh ấy cĩ
thể, bằng lối đốn mị, tình cờ đạt được điểm số cao hơn là nếu anh ta cẩn thận suy nghĩ
về từng câu hỏi để cố gắng đưa ra câu trả lời đúng. Thế nhưng, trong thực tế, ít khi thí
sinh cĩ kỳ vọng đạt được điểm cao trên một bài trắc nghiệm dài, gồm nhiều câu hỏi và
mỗi câu cĩ nhiều lựa chọn. Do đĩ, tuy rằng thí sinh cĩ thể đốn mị với một bài trắc
nghiệm, lối đốn mị ấy rất hiếm khi đem đến lợi lộc gì cho họ.
Lối áp dụng cơng thức điều chỉnh lại điểm số trắc nghiệm bằng cách trừ điểm các
câu làm sai được đặt trên giả định sai lầm là tất cả những câu làm sai đều là những câu
đốn mị. Thật ra, khơng phải lúc nào thí sinh cũng áp dụng lối đốn mị. Thí sinh chỉ
Luận văn tốt nghiệp SVTH: Ngô Thị Diệu Hiền
đốn mị trong một bài thi khi họ khơng cĩ chút kiến thức nào liên quan đến câu hỏi, khi
đã gần hết giờ làm bài, hay khi họ khơng cịn hứng thú để cố gắng lựa chọn câu tra lời cĩ
suy nghĩ. Thơng thường hơn, thí sinh khơng hẳn là đốn mị mà chi là khơng chắc chắn
hồn tồn về câu trả lời hay lựa chọn của mình.
Một trong các phương pháp tìm hiểu xem các thí sinh cĩ đốn mị hay khơng là
xem xét độ tin cậy của bài trắc nghiệm ấy. Nếu bài trắc nghiệm của ta cĩ hệ số tin cậy
cao, ta cĩ thể tin tưởng rằng sự đốn mị chỉ đĩng gĩp một phần rất nhỏ vào các điểm số
của thí sinh.
Dẫu sao, việc ngăn ngừa sự đốn mị, cũng như các kỹ thuật sửa chữa sự đốn
mị vẫn là mối quan tâm đặt biệt của các nhà nghiên cứu trắc nghiệm hiện đại.
b. Trắc nghiệm chỉ địi hỏi người học nhận ra thay vì nhớ thơng
tin?
Một chỉ trích thứ hai vẫn thường được nêu ra về trắc nghiệm là cho rằng trắc
nghiệm chỉ địi hỏi thí sinh “nhận ra” những gì đã học qua các câu trả lời cho sẵn, thay vì
“nhớ” các thơng tin ấy và viết ra trên giấy. Cũng như phần nhiều các chỉ trích khác, lối
phê phán này thường dựa trên cảm tính hơn là trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
Để tìm hiểu về vấn đề này, các nhà nghiên cứu trắc nghiệm đã thực hiện nhiều
cơng trình nghiên cứu thực nghiệm trong các thập niên 1960 và 1970, bằng cách so sánh
trắc nghiệm với tự luận và với hình thức điền khuyết. Godshalk, Choppin và Purves so
sánh trắc nghiệm với tự luận và chứng minh rằng trắc nghiệm cũng cĩ khả năng tiên
đốn thành quả học tập tổng quát của sinh viên khơng thua kém gì tự luận.
Hơn thế nữa, lời than phiền hay chỉ trích, cho rằng trắc nghiệm chỉ địi hỏi thí
sinh “nhận ra”, thay vì “nhớ” thơng tin, ngụ ý rằng các bài trắc nghiệm phải được giới
hạn trong việc khảo sát những gì học sinh đã được nghe hay đã được đọc trước kia, và
như vậy cơng dụng của trắc nghiệm là chỉ để khảo sát khả năng “nhớ” các thơng tin
mang tính chất sự kiện mà thơi. Quan niệm như vậy là khơng đúng, vì khả năng nhớ các
thơng tin, tuy là cần thiết nhưng đĩ là mức độ nhận thức thấp nhất. Một bài kiểm tra, dù
là tự luận hay trắc nghiệm, khơng chỉ nhằm mục đích khảo sát khả năng nhớ lại những gì
đã nghe, đã đọc, mà cịn phải hướng đến các khả năng cao hơn thế như: thơng hiểu, áp
dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá.
c. Trắc nghiệm khơng khảo sát mức độ cao của các quá trình tư
duy?
Nhiều người nghĩ rằng chỉ cĩ tự luận mới khảo sát được quá trình tư duy cao,
cịn trắc nghiệm chỉ khảo sát được khả năng nắm vững thơng tin mang tính chất sự kiện
mà thơi. Điều này chỉ đúng với những bài trắc nghiệm soạn thảo cẩu thả hay do người
soạn thảo chưa nắm vững các mục tiêu giảng dạy và đánh giá. Các quá trình tư duy cao
cĩ thể được mơ tả bằng nhiều cách, chẳng hạn như: suy luận, khái quát hĩa, suy luận trừu
tượng, suy diễn, quy nạp, phán đốn,tưởng tượng, Mặc dầu các quá trình tư duy này
khơng hồn tồn độc lập với nhau, nhưng chúng khơng đồng nghĩa. Người ta thường cho
rằng bài thi tự luận mới nhằm khảo sát các khả năng này, nhưng chưa cĩ, hay ít các cơng
trình nghiên cứu xác nhận điều này bằng phương pháp định lượng với các kỹ thuật thống
kê, chẳng hạn như kỹ thuật phân tích yếu tố. Nhưng đối với trắc nghiệm thì các khả năng
nĩi trên là những mục tiêu khảo sát mà người soạn trắc nghiệm phải quan tâm đến đầu
tiên, trước và trong khi soạn thảo. Và kỹ thuật phân tích yếu tố hiện đại cĩ thể giúp cho
Luận văn tốt nghiệp SVTH: Ngô Thị Diệu Hiền
các nhà làm trắc nghiệm phân tích được những khả năng nào mà bài trắc nghiệm họ soạn
thảo đã cĩ thể khảo sát được.
d. Trắc nghiệm khơng khảo sát đuợc khả năng sáng tạo?
Như Robert L. Ebel đã nêu, với tự luận thí sinh cĩ quyền tự do diễn tả ý tưởng
của mình bằng văn viết, trong khi trắc nghiệm chỉ cho phép họ lựa chọn trong số các giả
đáp cho sẵn. Như vậy phải chăng trắc nghiệm khơng khuyến khích khả năng sáng tạo?
Người ta vẫn thường cho rằng tự luận khuyến khích sự sáng tạo. Quả thật điều
này là một trong các ưu điểm của tự luận. Nhưng trong thực tế, nhất là trong các kỳ thi ở
nước ta, các bài thi tự luận thường chỉ nhằm khảo sát khả năng “nhớ” hay học thuộc long
những gì học sinh đã học hay đã đọc qua các bài giảng hay sách vở. Khả năng sáng tạo,
khả năng đưa ra những tư tưởng độc đáo ít khi được thể hiện, trái lại cĩ thể gây bất lợi
cho thí sinh. Dẫu sao đây chỉ là một trong các khuyết điểm do sự áp dụng chưa đúng
phương pháp soạn thảo đề thi và chấm thi theo lối tự luận. Trên nguyên tắc, bài tự luận
cho phép thí sinh tổ chức các ý tưởng của mình và trình bày các ý tưởng ấy bằng chính
ngơn ngữ của mình, thay vì diễn tả lại như vẹt những gì đã cĩ sẵn từ các nguồn thơng tin
khác. Do đĩ, về mặt nguyên tắc, tự luận cĩ thể khêu gợi tinh thần sáng tạo và phát huy
khả năng ấy.
Mặt khác, trắc nghiệm hồn tồn khách quan gồm những câu hỏi với câu trả lời
cho sẵn mà thí sinh chỉ việc lựa chọn, và điểm số của bài thi dựa vào tổng số các câu trả
lời đúng. Như vậy, một bài trắc nghiệm hồn tồn khách quan khĩ cĩ thể khảo sát khả
năng sáng tạo. Vì vậy gần đây, các nhà soạn thảo trắc nghiệm thường xen vào bài trắc
nghiệm những câu hỏi thuộc loại điền khuyết hay trả lời ngắn. Các câu trả lời này được
đánh giá theo mức độ đạt được các tiêu chuẩn sáng tạo đã định sẵn. Như vậy, trắc
nghiệm loại này khơng cịn hồn tồn khách quan nữa, vì cĩ các yếu tố chủ quan xen
vào. Hình thức trắc nghiệm này được xem như là sự phối hợp cả trắc nghiệm khách quan
lẫn tự luận. Tuy nhiên các cố gắng khảo sát khả năng sáng tạo theo hình thức trắc nghiệm
này vẫn cịn đang ở trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm cho nên vẫn chưa được áp
dụng rộng rãi.
Khuyến khích sự sáng tạo là một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục,
nhưng đo lường được khả năng ấy một cách đáng tin cậy là một điều rất khĩ khăn, vì lẽ
rằng khả năng sáng tạo cĩ tính chất thống qua hay bất định. Nĩ dường như dao động tùy
theo các điều kiện, hay hồn cảnh, mà cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu được khá đầy
đủ để cĩ thể sắp đặt chúng trong bối cảnh thi cử. Nếu các điều kiện thích hợp để làm nảy
nở khả năng sáng tạo chưa được xác định và kiểm sốt thì việc đo lường khả năng sáng
tạo sẽ mang tính chất bất ổn định về mặt thời gian. Hơn nữa, một đáp ứng mang tính sáng
tạo khơng sẵn sàng nẩy sinh vào một thời điểm đã được xác định trước. Các mẩu chuyện
từng được kể lại về các phát minh lớn trong khoa học đã cho thấy rằng thiên tài sáng tạo
khơng được biểu lộ theo các địi hỏi tức thì. Mơi trường thi cử chắc chắn khơng phải là
mơi trường thích hợp để địi hỏi tài năng sáng tạo ấy phải được bộc lộ bằng cách này hay
cách khác.
Tĩm lại, vấn đề khảo sát khả năng sáng tạo là một vấn đề khĩ khăn, phức tạp,
khơng những cho trắc nghiệm mà cho cả tự luận, và vẫn là mối quan tâm hàng đầu của
các nhà giáo dục.
Luận văn tốt nghiệp SVTH: Ngô Thị Diệu Hiền
4. Khi nào nên sử dụng trắc nghiệm hay tự luận?
Theo ý kiến của các chuyên gia về trắc nghiệm, ta nên sử dụng
tự luận để khảo sát thành quả học tập trong những trường hợp dưới
đây:
(1) Khi nhĩm học sinh được khảo sát khơng quá đơng và đề thi chỉ được sử dụng
một lần, khơng dùng lại nữa.
(2) Khi giáo viên cố gắng tìm mọi cách cĩ thể được để khuyến khích và tưởng
thưởng sự phát triển kỹ năng diễn ta bằng văn viết.
(3) Khi giáo viên muốn thăm dị thái độ hay tìm hiểu tư tưởng của học sinh về
một vấn đề nào đĩ hơn là khảo sát thành quả học tập của chúng.
(4) Khi giáo viên tin tưởng vào tài năng phê phán và chấm bài tự luận một cách
vơ tư và chính xác hơn là khả năng soạn thảo những câu trắc nghiệm thật tốt.
(5) Khi khơng cĩ nhiều thời gian soạn thảo bài khảo sát nhưng lại cĩ nhiều thời
gian để chấm bài.
Ta nên sử dụng trắc nghiệm trong những trường hợp:
(1) Khi ta cần khảo sát thành quả học tập của một số đơng học sinh, hay muốn
rằng bài khảo sát ấy cĩ thể được sử dụng lại vào một lúc khác.
(2) Khi ta muốn cĩ những điểm số đáng tin cậy, khơng phụ thuộc vào chủ quan
của người chấm bài.
(3) Khi các yếu tố cơng bằng, vơ tư, chính xác là những yếu tố quan trong nhất
của việc thi cử.
(4) Khi ta cĩ nhiều câu trắc nghiệm tốt đã được dự trữ sẵn để cĩ thể lựa chọn và
soạn lại một bài trắc nghiệm mới, và muốn chấm nhanh để sớm cơng bố kết quả.
(5) Khi ta muốn ngăn ngừa nạn “học tủ”, “học vẹt”, và gian lận thi cử.
Cả trắc nghiệm và tự luận đều cĩ thể sử dụng để:
(1) Đo lường mọi thành quả học tập.
(2) Khảo sát khả năng hiểu và áp dụng các nguyên lý.
(3) Khảo sát khả năng nghĩ cĩ phê phán.
(4) Khảo sát khả năng giải quyết các vấn đề mới.
(5) Khảo sát khả năng lựa chọn những sự kiện thích hợp và các nguyên tắc để
phối hợp chúng lại với nhau nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp.
(6) Khuyến khích học tập để nắm vững kiến thức.
Luận văn tốt nghiệp SVTH: Ngô Thị Diệu Hiền
II. CÁC HÌNH THỨC CÂU TRẮC NGHIỆM VÀ
NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ Ý KHI SOẠN CÁC CÂU
TRẮC NGHIỆM.
1. Loại câu trắc nghiệm Đúng – Sai (true – false items, câu (Đ) – (S),
câu cĩ 2 lựa chọn):
a. Cấu trúc: gồm một câu phát biểu và phần học sinh trả lời bằng cách lựa chọn:
Đúng (Đ) hay Sai (S).
b. Ưu và nhược điểm:
- Cĩ thể đặt được nhiều câu hỏi trong một bài trắc nghiệm với thời gian cho
trước; điều này làm tăng tính tin cậy của bài trắc nghiệm nếu như các câu trắc nghiệm Đ
– S được soạn thảo theo đúng quy cách.
- Trong khoảng thời gian ngắn cĩ thể soạn được nhiều câu trắc nghiệm Đ – S vì
người soạn trắc nghiệm khơng cần phải tìm ra phần trả lời cho học sinh lựa chọn.
- Độ may rủi cao (50%) do đĩ dễ khuyến khích người trả lời đốn mị.
c. Những yêu cầu khi soạn câu trắc nghiệm Đ – S:
- Mỗi câu trắc nghiệm chỉ nên diễn tả một ý tưởng độc nhất, tránh những câu
phức tạp, bao gồm quá nhiều chi tiết.
- Lựa chọn những câu phát biểu sao cho một người cĩ khả năng trung bình khơng
thể nhận ra ngay là (Đ) hay (S) mà khơng cần suy nghĩ.
- Những câu phát biểu mà tính chất (Đ), (S) phải chắc chắn, cĩ cơ sở khoa học.
- Tránh những câu phát biểu trích nguyên văn từ sách giáo khoa, như vậy sẽ
khuyến khích học sinh học thuộc lịng máy mĩc.
- Tránh dùng các từ: thơng thường, đơi khi, một số người, vì thường là câu
phát biểu (Đ).
2. Loại câu trắc nghiệm cĩ nhiều lựa chọn (Multiple choice
question, thường viết là MCQ).
a. Cấu trúc:
Gồm 2 phần: phần gốc và phần lựa chọn.
* Phần gốc: là một câu hỏi (kết thúc là dấu hỏi) hay câu bỏ lửng (chưa hồn tất).
Trong phần gốc, người soạn trắc nghiệm đặt ra một vấn đề hay đưa ra một ý tưởng rõ
ràng giúp cho người trả lời hiểu rõ câu trắc nghiệm ấy muốn hỏi điều gì để lựa chọn câu
trả lời thích hợp.
Luận văn tốt nghiệp SVTH: Ngô Thị Diệu Hiền
* Phần lựa chọn: cĩ thể 3, 4, 5 lựa chọn. Mỗi lựa chọn là câu trả lời (cho câu cĩ
dấu hỏi) hay là câu bổ túc (cho phần cịn bỏ lửng). Trong tất cả các lựa chọn chỉ cĩ một
lựa chọn được xác định là đúng nhất, gọi là “đáp án”. Những lựa chọn cịn lại đều phải là
sai (dù nội dung đọc lên cĩ vẻ là đúng), thường gọi là các “mồi nhử”, “câu nhiễu”. Điều
quan trọng người soạn thảo cần lưu ý là phải làm cho các mồi nhử ấy hấp dẫn ngang
nhau đối với những học sinh chưa nắm vững vấn đề, thúc đẩy học sinh ấy chọn vào
những mồi nhử này.
b. Ưu và nhược điểm:
- Độ may rủi thấp (25% với loại câu 4 lựa chọn; 20% với loại câu 5 lựa chọn).
- Nếu soạn đúng quy cách, kết quả cĩ tính tin cậy và tính giá trị cao.
- Cĩ thể khảo sát thành quả học tập của một số đơng học sinh; chấm nhanh; kết
quả chính xác.
- Để cĩ được một bài trắc nghiệm cĩ tính tin cậy và tính giá trị