Đề tài Xem xét quản lý nhà nước với đất nông nghiệp hiện nay

Đất có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò vô cùng to lớn. Nó vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. Là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được, không thể thiếu đối với các ngành sản xuất xã hội và đời sống con người. Việt Nam chúng ta là một nước có truyền thống sản xuất nông nghiệp, gắn liền với nền văn minh lúa nước. Người dân chúng ta vẫn sinh sống chủ yếu bằng hoạt động sản xuất nông nghiệp. Và ngay cả hiện tại, khi đất nước đang trên đà phát triển, đang trong quá trình CNH-HĐH thì ngành sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP, với một lượng lớn lao động (khoảng 70% lực lượng lao động) hoạt động trong lĩnh vực này. Vì lý do này mà trong những năm gần đây, việc quản lý của nhà nước với đất nông nghiệp cũng thay đổi nhiều để theo kịp, phù hợp với sự thay đổi cơ cấu đất đai thay đổi rất nhanh chóng ở các địa phương. Đất đai dành cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp – thay vào đó là đất đai dành cho sản xuất phi nông nghiệp tăng nhanh. Đây là một xu hướng biến động phù hợp với quy luật của sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ổn định đời sống của người dân và hạn chế những trường hợp vi phạm đất đai (nhất là những vi phạm về việc tự ý chuyển nhượng, chuyển đổi, sử dụng đất sai mục đích ) thì việc quản lý đất nông nghiệp một cách hợp lý, hiệu quả, bền vững đang được đặt ra.

docx28 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3206 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xem xét quản lý nhà nước với đất nông nghiệp hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Đất có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò vô cùng to lớn. Nó vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. Là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được, không thể thiếu đối với các ngành sản xuất xã hội và đời sống con người. Việt Nam chúng ta là một nước có truyền thống sản xuất nông nghiệp, gắn liền với nền văn minh lúa nước. Người dân chúng ta vẫn sinh sống chủ yếu bằng hoạt động sản xuất nông nghiệp. Và ngay cả hiện tại, khi đất nước đang trên đà phát triển, đang trong quá trình CNH-HĐH thì ngành sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP, với một lượng lớn lao động (khoảng 70% lực lượng lao động) hoạt động trong lĩnh vực này. Vì lý do này mà trong những năm gần đây, việc quản lý của nhà nước với đất nông nghiệp cũng thay đổi nhiều để theo kịp, phù hợp với sự thay đổi cơ cấu đất đai thay đổi rất nhanh chóng ở các địa phương. Đất đai dành cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp – thay vào đó là đất đai dành cho sản xuất phi nông nghiệp tăng nhanh. Đây là một xu hướng biến động phù hợp với quy luật của sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ổn định đời sống của người dân và hạn chế những trường hợp vi phạm đất đai (nhất là những vi phạm về việc tự ý chuyển nhượng, chuyển đổi, sử dụng đất sai mục đích…) thì việc quản lý đất nông nghiệp một cách hợp lý, hiệu quả, bền vững đang được đặt ra. Chính vì vậy nên việc “ Xem xét quản lý nhà nước với đất nông nghiệp hiện nay” đang là vấn đề rất cần quan tâm. 1. Đất nông nghiệp Căn cứ vào Luật Đất đai năm 1993 và luật sửa đổi bổ xung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và 2001 thì đất đai của nước ta được chia ra làm 5 loại cơ bản là đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Và từ đó đất nông nghiệp được hiểu là đất sử dụng chủ yếu vào mục đích sản xuất nông nghiệp của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hay để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Tuy nhiên với cách hiểu và cách chia như thế này đã dẫn đến một số khó khăn trong quản lý. Bởi việc phân chia đất đai vừa theo mục đích sử dụng vừa theo địa bàn này đã dẫn đến những sự trùng lặp, chồng chéo từ hai cách thức quản lý. Từ những sự mâu thuẫn và bất cập này mà Luật Đất đai năm 2003 đã ra đời để đáp ứng cho yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước về đất đai. Và theo luật đất đai năm 2003 thì đất đai của nước ta được chia ra làm ba nhóm là: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng, trong đó nhóm đất nông nghiệp bao gồm đất lâm nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản. Ta nhận thấy cách phân chia này đã thay đổi rất nhiều so với luật cũ, nó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quản lý Nhà nước về đất đai. Như vậy, so với cách chia cũ thì đất nông nghiệp sẽ bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản (theo luật đất đai năm 2003) và không có đất vườn tạp. 2. Đặc điểm và vai trò của đất nông nghiệp 2.1. Đặc điểm của đất nông nghiệp Đất đai nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng có những đặc điểm cơ bản sau: uĐất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động Đất đai đồng thời là tư liệu lao động và đối tượng lao động Đất đai bị giới hạn về mặt không gian và có vị trí cố định Đất đai là tư liệu sản xuất không thể tự sản sinh, có chất lượng không đều, khả năng sản xuất là vô hạn 2.2. Vai trò của đất nông nghiệp Vai trò của đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng là vô cùng to lớn. Nó không những đóng góp vai trò là điểm tựa trong các ngành sản xuất, là cơ sở cung cấp dinh dưỡng nuôi cây trồng trong sản xuất nông nghiệp mà còn là một trong những thành phần đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước, tạo nguồn vốn giúp các cá nhân, tổ chức đầu tư sản xuất. 3. Khái niệm về quản lý và nội dung quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp 3.1. Khái niệm về quản lý và sự cần thiết phải quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Đức Quản lý Nhà nước về đất đai là quá trình tác động bằng các cơ chế chính sách của các cấp chính quyền, các sở ban ngành ở địa phương vào các hoạt động khai thác sử dụng đất đai nhằm khai thác và sử dụng đất một 3.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp Theo Luật Đất đai năm 2003, có 13 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai được quy định cụ thể tại điều 6. Tuy nhiên những nội dung quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng tại cấp huyện (cụ thể tại huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây) thì cơ bản như sau: Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính. Lập, triển khai và giám sát việc thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất . Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi và chuyển mục đích sử dụng dất. Đăng ký quyền sử dụng đất , lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp-đơn thư khiếu nại , tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai. Phần II Thực trạng quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệphiện nay Đất phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp trên các địa phương đang giảm một cách rõ rệt. Theo hiện trạng sử dụng đất năm 2004( của huyện Hoài Đức) thì đất nông nghiệp tiếp tục giảm, còn 5846.73ha (giảm 52.15ha so với năm 2003); theo kế hoạch sử dụng đất năm 2005 thì đất nông nghiệp phải thu hồi tiếp 765.31ha (trong đó đất ruộng lúa, lúa màu thu hồi 714.25ha) và tính đến quy hoạch sử dụng đất năm 2010, đất nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 4252.4ha (giảm so với năm 2001 là 1720.03ha). Sở dĩ đất nông nghiệp của Hoài Đức giảm nhanh đến như vậy là do điều kiện tự nhiên , kinh tế xã hội thuận lợi của Hoài Đức đã tạo ra một lợi thế rất lớn trong việc phát triển kinh tế .Đáp ứng cho yêu cầu CNH-HĐH và phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá của đất nước, cùng với xu thế phát triển hội nhập của đất nước. Hoài Đức đã dần thay đổi bộ mặt nông thôn, cơ cấu ngành nghề thay đổi, kéo theo cơ cấu sử dụng đất, cơ cấu lao động thay đổi, đời sống nhân dân được cải thiện. Đất nông nghiệp đang giảm , thay vào đó là sự tăng lên của những đất đai sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp , mà điển hình là phục vụ cho các mục đích như xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao , đường sá và các trung tâm thương mại dịch vụ . Với những lý do này, nắm bắt được sự thay đổi rõ rệt của quỹ đất nông nghiệp , đặc thù của lao động vẫn chủ yếu là nông nghiệp nên để đảm bảo thu nhập của người dân, UBND huyện Hoài Đức đã có hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi thích hợp nhằm ổn định đời sống nhân dân. Biến động của đất nông nghiệp có một số xu hướng chính sau: uQuỹ đất nông nghiệp đang ngày càng giảm cả về số lượng và chất lượng. uĐất nông nghiệp đang được tập trung hoá hơn do nhiều người đã có những ngành nghề phụ đảm bảo thu nhập. uĐất nông nghiệp đang có xu hướng chuyển từ đất trồng lúa sang đất trồng cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ sản 3. Thực trạng quản lý đất nông nghiệp ở Hoài Đức hiện nay uKhảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính Đối với đất nông nghiệp, công tác này không được đầu tư nhiều. Hàng năm quỹ đất nông nghiệp có luôn giảm xuống nhưng việc chỉnh lý trên bản đồ cũng chưa được làm thường xuyên. Loại bản đồ hiện nay các xã thị trấn trong huyện sử dụng để quản lý đất nông nghiệp là bản đồ địa chính cũ từ những năm 1986, ở một số xã hiện vẫn còn chưa có bản đồ để quản lý loại đất này ở một số xứ đồng. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới công tác quản lý và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp Quy hoạch kế hoạch sử dụng đất là những công cụ quản lý của Nhà nước về đất đai. Nó là một bộ phận của quy hoạch kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Việc phát huy hiệu quả của công cụ này sẽ góp phần tích cực trong quản lý đất đai và cùng hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tại huyện Hoài Đức, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đã phát huy được vai trò tích cực của nó. Đã phần nào đưa đất đai vào quỹ đạo của sự ổn định, tác động tích cực tới việc thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thay đổi cơ cấu lao động nông thôn và dần dần thay đổi cơ cấu ngành, thay đổi diên mạo nông thôn. Tuy nhiên những quy hoạch kế hoạch sử dụng đất của huyện cũng có một số mặt hạn chế của nó. Trước hết việc lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất chưa được điều tra khảo sát kỹ càng, chưa được lấy ý kiến của dân, chưa phản ánh nhu cầu sử dụng đất của các thành phần kinh tế cho sự phát triển kinh tế xã hội. Những thông tin này chủ yếu trên cơ sở giấy tờ, thiếu tính thực tế. Do vậy những quy hoạch kế hoạch sử dụng đất này phần nhiều mang tính chủ quan của một bộ phận cán bộ chuyên môn, chưa phản ánh được nhu cầu sử dụng đất để đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Việc thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất thiếu tính trách nhiệm, các cán bộ địa chính cấp huyện không thường xuyên đôn đốc, kiểm tra cấp dưới thực hiện, nên kết quả đạt không cao. Việc giao đất, cho thuê đất là việc thực hiện quyền của người sử dụng đất đồng thời đảm bảo quyền đại diện sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước. Cùng với công tác này là hoạt động thu hồi và chuyển mục đích sử dụng đất để nhằm thực hiện khai thác và quản lý sử dụng đất theo hướng tích cực , đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội. uĐăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hố sơ địa chính, cấp GCN quyền sử dụng đất Chúng ta biết rằng đất nông nghiệp đã được giao toàn bộ cho các hộ gia đình, các nhân và các tổ chức quản lý sử dụng. Do vậy hệ thống thông tin về hồ sơ địa chính là tương đối đầy đủ. Duy chỉ có hệ thống bản đồ địa chính là còn thiếu và không thường xuyên cập nhật cho nên việc quản lý hồ sơ địa chính cũng gặp một số những khó khăn. Mặt khác, đất nông nghiệp còn có nhiều biến động, trong đó có những biến động ngầm mà cơ quan Nhà nước không thể biết được cho nên không đảm bảo sự đầy đủ về thông tin trong quản lý. Do vậy việc cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp cũng có phần hạn chế Tình hình cấp GCN vẫn còn chậm, chưa thực sự ưu tiên cho công tác này, chưa coi đây là biện pháp để tạo thuận lợi trong quản lý sử dụng đất, hạn chế những tranh chấp và là căn cứ xác thực để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Đồng thời khuyến khích người dân sử dụng đất có hiệu quả. Hiện tại, công tác này đang được đẩy nhanh để phấn đấu thực hiện tốt nghị quyết của HĐND huyện khoá 17, kỳ họp thứ 3 về việc tăng cường cấp GCN quyền sử dụng đất năm 2005, quán triệt tinh thần của Thông tư số 28/2004/TT-BTNMT, Luật Đất đai năm 2003. uThống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Công tác thống kê, kiểm kê được thực hiện thường xuyên theo luật định. Công tác này đã đạt được những kết quả nhất định và góp phần vào sự nắm bắt những thay đổi quỹ đất và hiện trạng sử dụng đất. Từ đó làm căn cứ để lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất và phân bổ quỹ đất cho những nhu cầu nhất định của sự phát triển kinh tế xã hội. Đảng uỷ, UBND huyện, thường trực Huyện uỷ Hoài Đức luôn coi những nhiệm vụ này là trọng tâm của việc đảm bảo ổn định về mặt đất đai và về chính trị xã hội. Do vậy UBND huyện luôn chỉ đạo thực hiện triệt để những quyết định của cấp trên trong lĩnh vực này. Đồng thời khi nhận thấy có những biến cố trong vi phạm pháp luật đất đai , UBND trực tiếp chỉ đạo kịp thời, nhanh chóng, giải quyết triệt để , đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Phần lớn những trường hợp vi phạm đều đã được xử lý. Các trường hợp trường hợp chuyển nhượng trái phép được xem xét và giải quyết bằng hình thức hợp pháp hoá. Còn những đối tượng lấn chiếm có tranh chấp được giải quyết tại Toà án nhân dân huyện. Tuy nhiên, việc thực hiện những công tác, nhiệmvụ này vẫn còn một số hạn chế như: Việc thanh tra, kiểm tra vẫn còn để sót một số đối tượng vi phạm; một số đơn thư còn chưa được giải quyết thoả đáng, không đảm bảo đúng thời hạn đã để mất lòng tin ở một bộ phận nhỏ dân cư đối với chính quyền; vẫn còn tình trạng giải quyết không hết đơn thư, để tồn đọng; xử lý chưa nghiêm những đối tựơng vi phạm, còn để hiện tượng tái phạm. 4. Nguyên nhân của những hạn chế Những hạn chế trong quản lý đất đai trên địa bàn chủ yếu bắt nguốn từ những nguyên nhân sau: Hệ thống pháp luật về đất đai của chúng ta còn nhiều bất cập, chồng chéo, một vấn đề nhiều khi được quy định rất khác nhau tại những văn bản pháp quy khác nhau Việc phân cấp thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai trong huyện còn chưa hợp lý, chồng chéo về thẩm quyền và chức năng giữa phòng Tài nguyên và môi trường và phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong việc quản lý, khai thác, sử dụng đất nông nghiệp Như vậy đây là sự chồng chéo trong thẩm quyền và chức năng quản lý đã ảnh hưởng không nhỏ đến những hạn chế trong quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp. Mặt khác việc quản lý đất đai từ cấp huyện đến cấp xã cũng không được chặt chẽ. Cấp huyện chỉ nắm được thông tin từ các xã, thị trấn thông qua việc báo cáo của cán bộ địa chính cấp xã. Trong khi đó cán bộ địa chính cấp xã lại chỉ thực hiện nhiệm vụ hay báo cáo khi có sự yêu cầu và giao nhiệm vụ của cấp trên. -Đội ngũ cán bộ địa chính huyện, xã thị trấn vừa thiếu lại vừa có trình độ chuyên môn hạn chế. Trình độ dân trí, khả năng tiếp cận và hiểu biết về luật đất đai của người dân còn có nhiều hạn chế. Nhiều trường hợp hộ gia đình, cá nhân có vi phạm pháp luật về đất đai nhưng lại không biết là vi phạm và vi phạm ở chỗ nào. Nhiều trường hợp còn đi kiện tụng không đúng nơi, đúng chỗ và sai luật. Ngoài ra hệ thống bản đồ gốc mà các xã , thị trấn trong huyện hiện vẫn sử dụng là những bản đồ cũ. Nguồn kinh phí cho lập quy hoạch kế hoạch, thống kê kiểm kê đất đai , cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn hạn chế và chậm nên đã ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng thực hiện công việc. 5.Đánh giá chung tình hình quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp Việc khảo sát, đo đạc lập bản đồ địa chính kết hợp với công tác đăng ký quyền sử dụng đất, lập và chỉnh lý hồ sơ địa chính đẫ xây dựng một hệ thống thông tin về đất đai tương đối đầy đủ.Công tác quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đang tính toán và phân bổ quỹ đất cho từng mục đích sử dụng ổn định, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.Từ đó giúp đất đai được khai thác sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả hơn và bền vững hơn. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp khiếu nại tố cáo những vi phạm đất đai đang góp phần thay đổi cách thức suy nghĩ của người nông dân vì ý nghĩ của việc khai thác sử dụng đất đai theo pháp luật. Đồng thời nó cũng đang nâng cao hiệu quả của quản lý, tránh những sai phạm trong quản lý và sử dụng để đất đai phát huy được vai trò là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt. Từ những điều này nó đã làm thay đổi cơ cấu lao động nông thôn và tiếp tục thay đổi cơ cấu ngành theo hướng tích cực, tác động tới cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp . Mặc dù cách thức quản lý đất nông nghiệp của của nhà nước vẫn còn một số hạn chế nhất định. Phần III Các giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp a. Tiếp tục thực hiện và tăng cường hiệu quả của các công cụ (nội dung) quản lý. Các văn bản pháp luật về đất đai được Nhà nước ban hành đều là một sự nghiêm túc để nhằm quản lý đất đai một cách chặt chẽ, khai thác hiệu quả, bền vững. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc tổ chức thực hiện những văn bản pháp luật này và việc sử dụng các công cụ quản lý ra ngoài thực tế lại mang tính hình thức, làm sai lệch đi ý nghĩa pháp lý của những văn bản pháp quy. Vì vậy để thực hiện tốt các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai thì trước tiên ta phải thay đổi lại nhận thức của cả một bộ phận cán bộ và người dân về những văn bản pháp luật. Pháp luật về đất đai là những chế tài cụ thể quy định về các quản lý, khai thác sử dụng đất đai nhằm đưa đất đai vào quỹ đạo của sự vận động có tổ chức chứ không phải là để hạn chế quyền sử dụng của người dân hay để làm thiệt hại lợi ích của một cá nhân tổ chức nào. Đồng thời ta phải xác định ngay từ đầu việc không thể buông lỏng quản lý, không thể để đất đai được sử dụng một cách tuỳ tiện, tự phát bằng cách nâng cao hiệu quả của các công cụ quản lý. Đối với công tác lập, triển khai và giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng sử dụng đất. - Hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống lập quy hoạch từ việc điều tra, khảo sát lấy ý kiến của người dân tới việc công bố, điều chỉnh và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng. - Cần thay đổi lại lối tư duy, suy nghĩ của người dân và một số bộ phận cán bộ (nhất là cấp xã) về vai trò và tầm quan trọng của quy hoạch, kế hoạch sử dụng sử dụng đất. Chính từ điều này mà dẫn đến những bản quy hoạch, kế hoạch sử dụng sử dụng đất đai của cấp xã thường thiếu thực tế, không đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội. Còn đối với người dân, thường không quan tâm tới quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, nhất là công việc sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp. Họ nghĩ rằng việc họ sử dụng đất nông nghiệp vào việc trồng lúa hay một loại cây nào khác là lẽ đương nhiên mà họ không nghĩ tới rằng đất đó có thể bị thu hồi hay có được quy hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng hay không. Cho nên những trường hợp vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng sử dụng đất đai là rất nhiều trong sản xuất nông nghiệp. - Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai là một bộ phận của quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cho nên việc đảm bảo sự phù hợp của quy hoạch, kế hoạch sử dụng sử dụng đất đai với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là một sự cần thiết. Nhằm tránh tình trạng phải thay đổi quy hoạch, kế hoạch chỉ vì lý do không đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đồng thời quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai của huyện, xã phải phù hợp với quy hoạch kế hoạch đất đai của tỉnh cũng nhằm để tránh việc phải điều chỉnh bổ sung hay điều chỉnh lại làm mất ổn định về đất đai cũng như đời sống của người dân. - Quy hoạch, kế hoạch sử dụng sử dụng đất phải phản ánh được nhu cầu, nguyện vọng của người dân thông qua việc lấy ý kiến. Đây là việc cần làm vì từ trước tới nay hầu như không thông qua ý kiến của người dân và điều này cũng được quy định cụ thể trong Luật Đất đai 2003 tại khoản 5 điều 25 và trong Nghị định 181 tại điều 18. - Quy hoạch, kế hoạch sử dụng sử dụng đất phải được công bố công khai không những chỉ tại những trụ sở cơ quan, UBND các xã, thị trấn mà còn phải trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương để tránh tình trạng người dân không nắm được quy hoạch, kế hoạch rồi khi vi phạm lại thoái thác trách nhiệm. - Quy hoạch, kế hoạch sử dụng sử dụng đất đai phải được cụ thể hoá thành bản đồ, khoanh định rõ ràng, cụ thể từng khu đất quy hoạch cho các mục đích nhất định. Khi có sự điều chỉnh về quy hoạch, kế hoạch cần phải được công bố công khai và giải trình cụ thể - Đồng thời gắn quyền lợi và trách nhiệm của người lập, tổ chức thực hiện với chính bản quy hoạch, kế hoạch để quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đạt hiệu quả cao. Và phải hiểu được quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là văn bản pháp lý và yêu cầu mọi đối tượng phải tuân theo. Đối với công tác đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Cần được thực hiện một cách thường xuyên liên tục để đảm bảo cập nhật thông tin, hình thành hệ thống thông tin đầy đủ phục vụ cấp giấy chứng nhận một cách nhanh chóng. Sau mỗi quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi và chuyển mục đích sử dụng cần phải được chỉnh lý biến động ngay vào hồ sơ địa chính. - Cán bộ cấp huyện phải thường xuyên kiểm tra việc chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính của cấp xã để kịp thời phát hiện những sai sót và chỉnh lý, đồng thời tăng cường chuyên môn cho cấp dưới. - Việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính cần phải được gắn liền với việc xây dựng bản đồ địa chính. Đối với công tác thống kê, kiểm kê và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất Thống kê kiểm kê đất đai là công cụ để Nhà nước nắm một cách đầy đủ quỹ đất và sự biến động của nó. Để tăng cường công tác này, đối với cấp huyện cần làm: - Nâng c
Luận văn liên quan