Giải quyết tranh chấp đất đai là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm giữ gìn ổn định sản xuất, đời sống, tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, giữ gìn an ninh, trật tự và ngăn ngừa hành vi vi phạp pháp luật nghiêm trọng có thể xảy ra.
Qua hơn 10 năm thi hành Luật Đất đai năm 1993 đã thu được kết quả quan trọng trong việc bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn tài nguyên đất đai quốc gia, đảm bảo cơ chế nhà nước thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, do tác động nhiều mặt của cơ chế thị trường, mà trực tiếp là quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu theo vùng, tiểu vùng làm phát sinh tranh chấp phức tạp, kéo dài, thậm chí có nơi đã trở thành điểm nóng.
Nguyên nhân phát sinh tranh chấp là dân không có thói quen cắm cột mốc, quá trình canh tác bị sai lệch hoặc chuyển nhượng, tặng, cho không làm đầy đủ các thủ tục hợp lệ. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các cơ quan chức năng gặp không ít khó khăn khi tìm chứng cứ để xác định tính khách quan của vụ kiện, thậm chí có nhiều trường hợp phải suy đoán theo lập luận của các bên. Từ đó, xảy ra tình trạng khiếu kiện vượt cấp, thư gửi nhiều nơi và qua nhiều cấp giải quyết mà các bên vẫn khiếu nại.
Luật Đất đai năm 2004 ra đời, đánh dấu một bước tiến mới trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai. Luật xác định rõ: tranh chấp đất đai có thể giải quyết thông qua hai con đường hành chính và tố tụng hành chính. Bằng thủ tục hành chính, sẽ chỉ có hai cấp giải quyết một tranh chấp và Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền đưa ra quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. Với trường hợp các bên tranh chấp đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy từ hợp pháp khác, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu thì có quyền lựa chọn một trong hai phương án: Khiếu nại lên cấp trên trực tiếp hoặc khởi kiện ra Toà.
Việc quy định “hai cấp” trong giải quyết tranh chấp đất đai sẽ tháo gỡ những khó khăn đáng kể cho các cơ quan chức năng, hạn chế đến mức thấp nhất kiện tụng kéo dài. Thế nhưng lại đặt ra cho nhà quản lý một trách nhiệm rất nặng nề. Đó là, làm sao vừa đảm bảo tiến độ thời gian, vừa đảm bảo tính chính xác của sự việc. Muốn vậy, trước hết cần phải có đội ngũ cán bộ chuyên môn am hiểu pháp luật, công tâm và có tinh thần trách nhiệm cao.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, việc cải cách thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác giải quyết đơn thư khiếu tố của công dân có ý nghĩa - vị trí - vai trò hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, việc làm tốt công tác xây dựng luật pháp - hành lang pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở và tăng niềm tin của nhân dân đối với chính quyền Nhà nước các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết.
Từ sự nhận thức trên, với một ít kinh nghiệm thực tiễn làm công tác quản lý và những kiến thức đã tiếp tục được trong quá trình học tập, nghiên cứu ở lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước khoá 3 tại Trường Chính trị tỉnh Hoà Bình, tôi lựa chọn tiểu luận với đề tài: “Xử lý tình huống trong lĩnh vực đất đai tại thị trấn B, huyện C” với mong muốn góp phần nghiên cứu, khảo nghiệm, vận dụng để giải quyết có hiệu quả, kịp thời các yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức trong giai đoạn hiện nay.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8809 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xử lý tình huống trong lĩnh vực đất đai tại thị trấn B, huyện C, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Giải quyết tranh chấp đất đai là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm giữ gìn ổn định sản xuất, đời sống, tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, giữ gìn an ninh, trật tự và ngăn ngừa hành vi vi phạp pháp luật nghiêm trọng có thể xảy ra.
Qua hơn 10 năm thi hành Luật Đất đai năm 1993 đã thu được kết quả quan trọng trong việc bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn tài nguyên đất đai quốc gia, đảm bảo cơ chế nhà nước thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, do tác động nhiều mặt của cơ chế thị trường, mà trực tiếp là quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu theo vùng, tiểu vùng làm phát sinh tranh chấp phức tạp, kéo dài, thậm chí có nơi đã trở thành điểm nóng.
Nguyên nhân phát sinh tranh chấp là dân không có thói quen cắm cột mốc, quá trình canh tác bị sai lệch hoặc chuyển nhượng, tặng, cho không làm đầy đủ các thủ tục hợp lệ. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các cơ quan chức năng gặp không ít khó khăn khi tìm chứng cứ để xác định tính khách quan của vụ kiện, thậm chí có nhiều trường hợp phải suy đoán theo lập luận của các bên. Từ đó, xảy ra tình trạng khiếu kiện vượt cấp, thư gửi nhiều nơi và qua nhiều cấp giải quyết mà các bên vẫn khiếu nại.
Luật Đất đai năm 2004 ra đời, đánh dấu một bước tiến mới trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai. Luật xác định rõ: tranh chấp đất đai có thể giải quyết thông qua hai con đường hành chính và tố tụng hành chính. Bằng thủ tục hành chính, sẽ chỉ có hai cấp giải quyết một tranh chấp và Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền đưa ra quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. Với trường hợp các bên tranh chấp đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy từ hợp pháp khác, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu thì có quyền lựa chọn một trong hai phương án: Khiếu nại lên cấp trên trực tiếp hoặc khởi kiện ra Toà.
Việc quy định “hai cấp” trong giải quyết tranh chấp đất đai sẽ tháo gỡ những khó khăn đáng kể cho các cơ quan chức năng, hạn chế đến mức thấp nhất kiện tụng kéo dài. Thế nhưng lại đặt ra cho nhà quản lý một trách nhiệm rất nặng nề. Đó là, làm sao vừa đảm bảo tiến độ thời gian, vừa đảm bảo tính chính xác của sự việc. Muốn vậy, trước hết cần phải có đội ngũ cán bộ chuyên môn am hiểu pháp luật, công tâm và có tinh thần trách nhiệm cao.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, việc cải cách thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác giải quyết đơn thư khiếu tố của công dân có ý nghĩa - vị trí - vai trò hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, việc làm tốt công tác xây dựng luật pháp - hành lang pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở và tăng niềm tin của nhân dân đối với chính quyền Nhà nước các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết.
Từ sự nhận thức trên, với một ít kinh nghiệm thực tiễn làm công tác quản lý và những kiến thức đã tiếp tục được trong quá trình học tập, nghiên cứu ở lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước khoá 3 tại Trường Chính trị tỉnh Hoà Bình, tôi lựa chọn tiểu luận với đề tài: “Xử lý tình huống trong lĩnh vực đất đai tại thị trấn B, huyện C” với mong muốn góp phần nghiên cứu, khảo nghiệm, vận dụng để giải quyết có hiệu quả, kịp thời các yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề mang tính lý luận gắn với thực tiễn, do thời gian có hạn và khả năng của bản thân vẫn còn nhiều điều cần phải bổ cứu, bài viết sẽ còn nhiều thiếu sót cần bổ sung, tôi mạnh dạn dẫn ra đây để mong được trao đổi cùng các bạn đồng học và mong được sự góp ý, chỉnh lý của Thầy giáo, cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn, giúp cho bản thân có thêm kiến thức, kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn và trong phạm vi chức năng nhiệm vụ được giao.
Phần thứ nhất
Mô tả tình huống
Ông Nguyễn Văn A đi bộ đội chiến đấu ở chiến trường miền Nam, khi phục việc trở về quê hương, năm 1979 gia đình ông được UBND thị trấn B cấp cho lô đất mang tên Nguyễn Văn A với diện tích 360m2 ở khối 9 - Thị trấn B - Huyện C. Gia đình ông lúc bấy giờ gồm có 5 người: Hai vợ chồng ông, anh con trai cả tên là Nguyễn Văn D, anh con trai thứ tên là NguyễnVăn L và anh con trai út tên là Nguyễn Văn M. Do đặc điểm xung quanh lô đất được cấp là ao tự nhiên chưa gia cho hộ nào quản lý cho nên trong quá trình sử dụng đất gia đình ông A đã cải tạo lấp ao để mở rộng diện tích vườn trồng rau cho gia đình.
Vào năm 1992, UBND thị trấn có chủ trương làm đường liên khối đi qua lô đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông A chia nó thành 2 mảnh, một mảnh có nhà ở và một mảnh đã trồng hoa màu. Trong năm 1996, ông A cưới vợ cho anh con trai cả là Nguyễn Văn D, vợ chồng anh Nguyễn Văn D cùng ở chung với gia đình ông, cũng trong năm này ông Nguyễn Văn A đã thuê xe đổ đất và cải tạo phần đất đang sử dụng canh tác trồng hoa màu, mục đích cải tạo thành đất ở. UBND thị trấn viết giấy mời ông A lên xuất trình giấy tờ về quyền sử dụng đất của ông A, cán bộ địa chính thị trấn B cho rằng đất của gia đình ông A thừa diện tích. Cán bộ địa chính hướng dẫn cho ông A về làm đơn xin giao đất làm nhà cho con trai cả của ông tên là Nguyễn Văn D và gửi cho thị trấn để giải quyết. Theo hướng dẫn của cán bộ địa chính thị trấn, ông Nguyễn Văn AD (con trai cả của ông Nguyễn Văn A) đã làm đơn và được UBND thị trấn B giao 100m2 trên diện tích lô đất mà gia đình ông A đang trồng hoa màu để làm đất ở, đồng thời UBND thị trấn thu của ông A 6.000.000 đồng tiền kinh tế đất. Còn lại 130m2, UBND thị trấn sử dụng làm mương thoát nước với diện tích 25m2, đồng thời đền cho gia đình ông A 3.000.000 đồng tiền hoa mùa. Diện tích còn lại gia đình ông A vẫn dùng để trồng rau màu khoảng 100m2. Tháng 01/2007 UBND thị trấn B đã làm thủ tục giao 100m2 đất còn lại mà ông A đang trồng rau màu cho bà Đặng Châu M làm nhà ở và thu của bà M 60.000.000 đồng. Khi bà M tiến hành thi công xây dựng nhà ở, gia đình ông A phản đối. UBND thị trấn có giấy mời ông A lên trình bày giấy tờ về quyền sử dụng đất, qua xem xét UBND thị trấn thông báo là diện tích đất còn lại mà ông A đang sử dụng trồng rau màu là diện tích thừa không phải đất còn lại mà ông A đang sử dụng trồng rau màu là diện tích thừa không phải đất sử dụng hợp pháp của gia đình ông, UBND thị trấn có quyền giao đất có thu tiền cho người khác sử dụng.
Từ diễn biến sự việc đó, ngày 09/2/2007 ông Nguyễn Văn A đã làm đơn khiếu nại gửi UBND thị trấn B - huyện C, tỉnh HB với nội dung không nhất trí với cách giải quyết UBND thị trấn về diện tích đất trồng hoa màu của gia đình ông, ông cho rằng diện tích đất hợp pháp của gia đình ông là 360m2 nay phải đo đủ cho gia đình số diện tích đó.
Trên cơ sở đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn A công dân khối 9 - Thị trấn B - Huyện C, UBND thị trấn đã giao cho cán bộ phụ trách đô thị, địa chính, tư pháp và các thành viên có liên quan xác minh sự việc và tham mưu để UBND thị trấn có thông báo số 04 ngày 25/03/2008 với nội dung: “Diện tích đất mà gia đình ông Nguyễn Văn A trồng rau là do gia đình tự ý khai phá, nằm ngoài diện tích đất mà UBND thị trấn B cấp, hiện đã chấm dứt quyền sử dụng đất sau khi đã được đền bù hoa lợi, gia đình đã làm đơn nhất trí nhận 3.000.000đ tại thời điểm năm 1996”. Do không đồng ý với cách giải quyết đó nên ông Nguyễn Văn A tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi UBND Huyện C, với nội dung như trên và khẳng định không đồng ý với cách giải quyết của UBND thị trấn B.
Nhận được đơn tiếp tục khiếu nại của ông A ngày 02/5/2008 UBND huyện B đã ban hành Quyết định số 229/QĐ-UB về việc thành lập đoàn thanh tra giải quyết đơn khiếu nại ông Nguyễn Văn A khối 9 - Thị trấn B - Huyện C - Tỉnh HB gồm các thành viên như sau: Phòng Tài nguyên - Môi trường, Phòng Thanh tra, Quản lý đô thị huyện và Chủ tịch UBND thị trấn B. Đoàn có nhiệm vụ tiến hành xác minh, kiểm tra làm rõ những nội dung trong đơn khiếu nại của ông NguyễnVăn A và kiến nghị, báo cáo Chủ tịch UBND huyện C xử lý.
Quá trình xác minh hồ sơ địa chính hiện đang lưu tại UBND thị trấn A cho thấy:
+ Tại hồ sơ địa chính lập năm 1991 thì sổ mục kê ruộng đất lập ngày 15/5/1991 và bản đồ địa chính (Tờ số 2 trang 50) có tên ông Nguyễn Văn A đăng ký thửa đất có ký hiệu là 200a với diện tích là 360m2, số liệu diện tích này trùng với số liệu ông Nguyễn Văn A khiếu nại trong đơn. Tại thời điểm này đường liên khối chưa được phản ánh lên bản đồ.
Năm 1992 đường liên khối được nâng cấp và mở rộng, phần diện tích đường đi qua thửa đất của ông Nguyễn Văn là 60m2. Trong bản đồ địa chính phản ánh ở thời điểm này thì thửa đất 200a do ông Nguyễn Văn A sử dụng được tách thành 2 thửa cụ thể là:
- Thửa 90, tờ bản đồ 12 có diện tích là 105m2 đất do ông Nguyễn Văn L sử dụng nhưng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì do ông Nguyễn Vân đứng tên sử dụng.
-Thửa 91, tờ bản đồ 12 có diện tích 190m2 đất do ông Nguyễn Văn A đứng tên sử dụng.
Tại thời điểm này do đường liên khối đã mở rộng và nâng cấp cho nên diện tích hai thửa đất này tại hai thời điểm năm 1991 và 1992 có sự chênh lệch về diện tích.
Đối chiếu với hồ sơ địa chính được lập năm 2002 thì tại bản đồ chính quy số 20 cho thấy thửa đất này đã từng mang số hiệu 200a, có diện tích 360m2 năm 1991 của gia đình ông Nguyễn Văn A nay đã được chia làm 3 thửa:
- Thửa 90, diện tích 96m2 thực tế hiện nay do ông Nguyễn Văn L sử dụng nhưng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì do ông Nguyễn Văn A đứng tên sử dụng.
- Thửa 80, diện tích 89m2 do ông Nguyễn Thanh Tùng sử dụng do nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn A.
- Thửa 92, diện tích 112m2 do ông Nguyễn Văn A và con trai là ông Nguyễn Văn M sử dụng, hiện nay đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng mang tên ông Nguyễn Văn A.
Tổng diện tích 3 thửa đất là 297m2
Đối chiếu với hồ sơ mà ông Nguyễn Văn A cung cấp gồm có:
Giấy chứng nhận đất ở đứng tên ông Nguyễn Văn A được sử dụng với diện tích 360m2 gồm 130m2 diện tích đất ở và 230m2 diện tích đất giao cho gia đình sử dụng sản xuất tại khối phố 9 Thị trấn B do ông Phan Thanh H ký nhưng không đề thời gian.
Như vậy đối chiếu với hồ sơ địa chính hiện đang lưu giữ tại UBND Thị trấn B và các giấy tờ do ông Nguyễn Văn A cung cấp, thì thửa đất mang số hiệu 200a với diện tích 360m2 được lập trong bản đồ địa chính năm 1991 của gia đình ông Nguyễn Văn A sử dụng đã có biến động về diện tích. Nguyên nhân là do đường liên khối đã được mở rộng và nâng cấp đã cắt ngang qua một phần diện tích của thửa đất này, đồng thời do có một phần diện tích đã được chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh Tùng, do đó diện tích đất của gia đình ông A hiện nay chỉ còn 205m2 giảm 115m2.
Theo báo cáo của UBND thị trấn B, việc UBND thị trấn quyết định mở rộng và nâng cấp con đường liên khối được thực hiện với chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” không đền bù việc giải phóng mặt bằng, chỉ thực hiện đền bù hoa màu nếu có, theo hồ sơ làm đường còn lưu lại thì diện tích đất vườn của ông A được thu hồi (không đền bù) đề làm đường là 60m2 .Theo biên bản họp khối, các hộ gia đình của ông A đã ký hợp đồng ký giao đất không phải đền bù. Vậy diện tích đất ở và đất vườn của gia đình ông A chỉ còn 297m2 là chính xác (kể cả số diện tích ông A đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh Tùng).
+ Tại bản đồ địa chính lập năm 1991, phần diện tích mà gia đình ông Nguyễn Văn A cải tạo trồng hoa màu được thể hiện là thửa đất không có số thửa (còn để trống) thuộc quyền quản lý của UBND thị trấn B. Năm 1996 UBND thị trấn B quy hoạch phần diện tích đất ao này để cấp đất xen canh và xây dựng mương thoát nước đi qua. Có 3 hộ tự cải tạo phần diện tích đất ao hoang này để trồng rau , được UBND thị trấn bồi thường hoa màu trên đất. Qua kiểm tra hồ sơ đang lưu giữ tại thị trấn đoàn thanh tra đã nhận thấy ngày 10/6/1996 ông A đã làm đơn xin bồi thường hoa màu và đã được UBND thị trấn xác nhận có khai hoang đất và đã hỗ trợ tiền hoa màu 3.000.000đ, tại phiếu chi số 285 ông A kts nhận đủ số tiền này. Ông Lâm Công Anh đã sử dụng phấn diện tích đất ao liền kề để trồng rau cũng được UBND thị trấn đền bù 2.800.000đ, ông Trần Văn Nhật cũng được đền bù 3.000.000đ. Năm 2007 UBND thị trấn B đã cấp đất giao cho bà Đặng Châu M sử dụng . Tại biên bản xác nhận giao nhà đất do UBND thị trấn B lập ngày 02/12/2007 đã xác định rõ là giao cho bà M 100m2 đất ao hồ thị trấn thu hồi của ông A để sử dụng vào mục đích làm nhà ở và bà M phải nộp một khoản tiền 60 triệu đồng và UBND thị trấn B đã thu của bà M số tiền 60 triệu đồng tiền thu lệ phí xây dựng phúc lợi hạ tầng và tiền sử dụng đất.
Trên cơ sở kết quả báo cáo xác minh kiểm tra kiến nghị của Đoàn thanh tra Liên ngành, Chủ tịch UBND huyện C đã có Quyết định số 1229/QĐ-UB ngày 08/6/2008 về việc giải quyết đơn khiếu nại ông Nguyễn Văn A, khối 9- Thị trấn B - huyện C với nội dung như sau: “Việc ông Nguyễn Văn A khiếu nại UBND thị trấn B lấy đất mà UBND thị trấn B quy hoạch cấp xen canh cho bà Đặng Châu M năm 2007 nguyên là đất ao hoang do UBND thị trấn quản lý được thể hiện tại hồ sơ địa chính nêu trên hiện đang lưu giữ tại thị trân B, gia đình ông Nguyễn Văn A chỉ cải tao một phần diện tích đất để trồng hoa màu và đã được UBND thị trấn B đền bù 3.000.000đ. Gia đình ông Nguyễn Văn A không có hồ sơ giấy tờ để chứng minh quyền sử dụng đất đối với thửa đât đã nêu trên; đồng thời gia đình ông A cũng không thực hiện nghĩa vụ Nhà nước đối với phần diện tích đó. Giao cho UBND thị trấn B hướng dẫn các hộ gia đình có liên quan làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật và nghiêm túc kiểm điểm các cá nhân liên quan đến việc bán đất cho hai hộ Nguyễn Văn D và Đặng Châu M. Đất của hai hộ này sẽ được xử lý theo quy định của Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thửa đấy mang số hiệu là 200a với diện tích là 360m2 được lập trong bản đồ địa chính năm 1991 của gia đình ông Nguyễn Văn A đang sử dụng hiện nay có biến động về diện tích đất, nguyên nhân do đường liên khối được mở rộng và nâng cấp đã cắt ngang một phần của thửa đất nào (60m2),đồng thời do có một phần đã được chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh Tùng. Việc UBND thị trấn quyết định mở rộng và nâng cấp con đường liên khối được thực hiện với chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đã được nhân dân trong khối bàn bạc dân chủ, thống nhất mở đường không nhận tiền đền bù, nếu diện tích làm đường không năm trong khu vực công trình nhà ở đã xây dựng của dân, chỉ đền bù hoa màu (nếu có); tại thời điểm UBND thị trấn B chủ trương thi công đường liên khối thì gia đình ông Nguyễn Văn A đã ký biên bản thống nhất không đền bù, nên trả lời cho gia đình ông A biết là sự việc đã được giải quyết xong trong năm 1992 (thời điểm làm đường liên khối)”.
Sau khi nhận được quyết định giải quyết đơn khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện C. Ông Nguyễn Văn A vẫn không nhất trí với cách giải quyết của Chủ tịch UBND huyện C, đồng thời tiếp tục viết đơn khiếu nại ngày 28/6/2008 đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện C lên Chủ tịch UBND tỉnh với nội dung: Không công nhận các nội dung tại Quyết định số 1229/QĐ-UB ngày 28/5/2008 của Chủ tịch UBND huyện C, về việc giải quyết khiếu nại của gia đình ông.
Phần thứ hai
Xác định mục tiêu xử lý
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải sớm giải quyết dứt điểm vụ việc này và làm bắt cách nào để nâng cao hiệu quả giải quyết, đáp ứng tình hình hiện nay. Xét thấy đây là một vụ khiếu kiện kéo dài, phức tạp đụng chạm đến vấn đề đất đai là vấn đề nhạy cảm, bức xúc, cấp bách cần giải quyết ngay với mục tiêu:
- Xử lý dứt điểm vụ khiếu nại kéo dài lên tất cả các cấp, các cơ quan có thẩm quyền, đúng điểm dừng theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo và Luật Đất đai hiện hành (quyết định giải quyết cuối cùng).
-Việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn A phải đảm bảo đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình, bảo vệ được quyền lợi và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Văn A là người sử dụng đất đang khiếu nại tiếp.
- Phải khắc phục được tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất trong tình hình hiện nay, nhằm đảm bảo tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai , bảo vệ uy tín, củng cố lòng tin của công dân đối với chính quyền địa phương các cấp.
- Xứ lý nghiêm minh đúng pháp luật đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật về Đất đai, khiếu nại tố cáo của cá nhân, tổ chức, chính quyền có liên quan đến vụ việc khiếu nại kéo dài, phức tạp này.
- Thông qua việc giải quyết thấu tình đạt lý vụ việc khiếu nại của ông Nguyễn Văn A, khối 9, thị trấn B , huyện C để góp phần tuyên truyền phổ biến giáo dục ý thức tuân thủ nghiêm minh các văn bản pháp luật đất đai và pháp luật khiếu nại tố cáo đối với cá nhân ông A, UBND thị trấn B, UBND huyện C và các cơ quan tổ chức có liên quan.
Phần thứ ba
Phân tích nguyên nhân và hậu quả
1. Nguyên nhân:
Vụ việc này đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan như sau:
a. Nguyên nhân khách quan:
- Trong một thời gian dài, công tác quản lý đất đai bị buông lỏng, quy trình quản lý thiếu chặt chẽ, thiếu khoa học. Hồ sơ địa chính, tài liệu lịch sử làm căn cứ giải quyết không đầy đủ.
- Các chính sách, văn bản pháp luật của Nhà nước về quản lý đất đai có nhiều thay đổi, có những vấn đề chưa thật cụ thể. Mặt khác, công tác cập nhật văn bản pháp luật của cán bộ cơ sở còn yếu, vì vậy việc vận dụng, thực thi trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn.
- Giá trị quyền sử dụng đất ngày càng tăng cao, vì vậy đã tác động đến việc khiếu kiện đòi quyền lợi có phần thêm gay gắt.
b. Nguyễn nhân chủ quan:
- Trình độ quản lý hành chính Nhà nước nói chung về đất đai của các cấp, các ngành từ huyện đến cơ sở còn bất cập.Công tác quản lý đất đai trong một thời gian dài còn buông lỏng, chưa được chú trọng, hồ sơ địa chính của thửa đất (là căn cứ quan trọng để giải quyết vụ việc) không đầy đủ, không cập nhật,thiếu chặt chẽ; thủ tục hành chính không đảm bảo.
- Đối với UBND thị trấn B đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước của thị trấn qua các thời kỳ về đất đai còn non yếu về chuyên môn, kém hiểu biết pháp luật về đất đai, thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa tôn trọng các quy định về pháp luật đất đai, cho nên đã tham mưu cho UBND thị trân có hành vi, quyết định hành chính giao đất, thu đất, thu tiền sử dụng đất trái với quy định của pháp luật về đất đai, về thẩm quyền giao đất, thu hồi đất, đền bù thiệt hại về đất dẫn đến công dân khiếu nại kéo dài, nhiều cấp, chậm giải quyết dứt điểm .Mặt khác chưa kịp phát hiện và ngăn chặn những việc làm sai trái của công dân dẫn đến sự việc phức tạp và có khả năng gây hậu quả không tốt về an ninh, trật tự. Cụ thể khi ông A san lấp ao hoang để sản xuất với ý đồ để chiếm riêng, cán bộ địa chính thị trấn không báo cho ông A biết đó là việc làm sai luật và có biện pháp ngăn chặn kịp thời, làm cho ông A ngộ nhận đó là đất riêng của mình nên đã khiếu kiện sai và kéo dài.
- Về phía ông NguyễnVăn A chưa có ý thức tự giác tìm hiểu để nhận thức đúng đắn và đầy đủ các quy định của pháp luật đất đi và pháp luật khiếu nại tố cái dẫn đến những thiếu sót, sai phạm kéo dài ngày càng phức tạp trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ sử dụng đất làm cho chính quyền các cấp, các cơ quan có thẩm quyền phải đổ nhiều công sức thời gian, kinh phí vào việc giải quyết việc khiếu nại tưởng chừng như rất đơn giản.
2. Hâu quả:
- Một khi sự việc tranh chấp đất đai không được giải quyết dứt điểm thì việc khiếu nại sẽ kéo dài, làm ảnh hưởng đến cuộc sống chung của những người liên quan, của gia đình cha con ông A và gây mất ổn định tình hình an ninh - trật tự xã hội trên địa bàn khu dân cư.
- UBND thị trân B buông lỏng quản lý quỹ đất thiếu trách nhiệm trong quản lý đất đai, hồ sơ địa chính chưa được quan tâm đúng mức, chưa đầy đủ, không đủ cơ sở cho việc quản lý đất đai, việc chỉnh lý biến động đất đai không được theo dõi và có biểu hiện lợi ích cục bộ của thị trấn cho nên đã có những quyết định về thu hồi, giao đất và thu tiền sử dụng đất đai trái với quy định của Luậ Đất đai và nguyên tắc quản lý kinh tế, tài chính của Nhà nước, vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN trongq uản lts đất đai, kinh tế - tài c