Diễn biến kinh tế năm 2010 và vấn đề tái cấu trúc dài hạn

Chính sách thắt chặt tiền tệ từ cuối năm 2009 đã đem lại kết quả rõ rệt trong 6 tháng đầu năm 2010 với tình hình vĩ mô được ổn định, đáng kể nhất là nguy cơ lạm phát 2 con số được chặn lại từ quý 2 và tăng trưởng kinh tế hồi phục lên mức cao hơn năm ngoái, gần hơn tới mục tiêu 6,5 % của Chính phủ cho năm nay. Tuy nhiên sau việc điều tra những sai phạm và tái cấu trúc Vinashin được công bố, những vấn đề dài hạn như tái cấu trúc nền kinh tế và quản trị các doanh nghiệp nhà nước lại xuất hiện nổi cộm như những ưu tiên chính sách mới, nhất là khi chính phủ đang kết thúc việc sửa soạn các chương trình kinh tế xã hội cho 5 và 10 năm tới.

pdf19 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Diễn biến kinh tế năm 2010 và vấn đề tái cấu trúc dài hạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DIỄN BIẾN KINH TẾ NĂM 2010 VÀ VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC DÀI HẠN TS. Phạm Đỗ Chí Cựu chuyên gia cao cấp IMF Chính sách thắt chặt tiền tệ từ cuối năm 2009 đã đem lại kết quả rõ rệt trong 6 tháng đầu năm 2010 với tình hình vĩ mô được ổn định, đáng kể nhất là nguy cơ lạm phát 2 con số được chặn lại từ quý 2 và tăng trưởng kinh tế hồi phục lên mức cao hơn năm ngoái, gần hơn tới mục tiêu 6,5 % của Chính phủ cho năm nay. Tuy nhiên sau việc điều tra những sai phạm và tái cấu trúc Vinashin được công bố, những vấn đề dài hạn như tái cấu trúc nền kinh tế và quản trị các doanh nghiệp nhà nước lại xuất hiện nổi cộm như những ưu tiên chính sách mới, nhất là khi chính phủ đang kết thúc việc sửa soạn các chương trình kinh tế xã hội cho 5 và 10 năm tới. GDP tiếp tục gia tăng nhờ hoạt động kinh tế trong nước tăng tốc GDP tăng 6,4% trong Q2.10 so với 5,8% trong Q1.10, và 6,1% cho 6 tháng đầu năm. Nguyên do là nhờ khu vực công nghệ và xây dựng đã tăng 13,8% trong Q2.10 và đặc biệt là hoạt động bán lẻ đã tăng 37,6 % so với cùng kì năm ngoái. Đáng kể là trong một số hoạt động công nghiệp như sản xuất quần áo và da giày, mặc dù phải đối phó với sự trì trệ tương đối của xuất khẩu sang khu vực Âu châu do ảnh hưởng khủng hoảng nợ công của châu lục này, các nhà sản xuất đã linh hoạt quay sang thị trường nội địa để duy trì sản xuất. Điều này nói lên khả năng tiềm ẩn của thị trường nội địa trong trung hạn khi Việt Nam phải đối phó với vấn đề xuất khẩu giới hạn. Khả năng này cho thấy mục tiêu tăng trưởng 6,5% có thể đạt được cho cả năm khi dự báo tăng cho GDP là 7%-7,2% cho 6 tháng tới. Lạm phát tiếp tục được kiềm chế Lạm phát tiếp tục giảm trong quý 2, còn 8,7% vào tháng 6 so với cùng kì năm ngoái, so với 9,5% vào tháng 3, do chính sách tín dụng thắt chặt và giá cả thực phẩm và năng lượng giảm. Tăng trưởng tín dụng chỉ tăng 3,5% trong Q1 và 13% trong 7 tháng đầu năm; mục tiêu làm giảm cung tiền và tín dụng xuống còn 20%-25% trong năm 2010 có thể thực hiện được và sẽ tiếp tục làm giảm kỳ vọng lạm phát cho 6 tháng cuối năm, nhờ đó mức lạm phát cho cả năm có thể giữ được ở mức 8%-9%, thay vì mức hai con số lo ngại dạo đầu năm. Giá dầu quốc tế giảm xuống còn 75 USD/thùng trong tháng 6 cũng đã góp phần giảm sức ép cho lạm phát. Nhưng khuynh hướng giá dầu tăng trở lại lên trên 80 USD/thùng vào cuối tháng 7 vẫn còn là áp lực đẩy giá, ngoài vấn đề chính là NHNN vẫn cố giữ được mức tăng hợp lý cho tín dụng trong những tháng cuối năm. Các cố gắng để đem tín dụng trở lại dần với cơ chế thị trường Mặc dù có sự can thiệp tích cực của NHNN thông qua Hiệp hội Ngân hàng để đem lãi suất cho vay xuống thêm nữa ở mức công bố là 12%, lãi suất này thật sự vẫn còn được áp dụng ở dải 12%-16%, và lãi suất tiền gửi giảm xuống còn 11%- 11,2% Thanh khoản tiếp tục tăng trên thị trường liên ngân hàng, giúp lãi suất đồng Việt Nam qua đêm giảm xuống còn 6%-7% và lãi suất đồng USD giảm xuống mức bình thường là 0.5%-1%. Trong khi đó, các ngân hàng với tình trạng thanh khoản cải thiện đã mua thêm nhiều trái phiếu chính phủ và giúp cải thiện thị trường trái phiếu qua đó nhiều trái phiếu Chính phủ được bán qua đấu giá và làm lãi suất trái phiếu giảm nhanh từ 12,2% vào cuối tháng 4 xuống còn 10,7% vào đầu tháng 7. NHNN đặt mục tiêu giảm lãi suất tiền gửi xuống còn 10% và lãi suất cho vay thật sự xuống 12% trong quý 3. Điều này khiến một số doanh nghiệp tiếp tục chờ đợi chưa vay vốn tiền đồng và dùng vốn tự có hay vay vốn bằng USD. Việc này cũng làm nền kinh tế càng bị đô la hoá hơn và tạo ra áp lực lên tỉ giá như bàn dưới đây. Khả năng lãi suất xuống thấp nữa hay không là tuỳ theo nhiều yếu tố : (i) mức lạm phát tiếp tục xuống trong những tháng còn lại giúp làm giảm kỳ vọng lạm phát cho năm tới; (ii) sự ổn định của nền tài chính công gây tin tưởng trở lại cho các doanh nhân cũng như giới đầu tư; (iii) sự hoạt động trở lại của tín dụng theo các điều kiện thị trường bớt hẳn sự can thiệp của NHNN; và nhất là (iv) sự ổn định của tỉ giá. Thâm hụt thương mại tiếp tục ở mức cao và các khoản vay ngân hàng bằng USD lại làm ảnh hưởng đến tỉ giá Thâm hụt thương mại lại tăng lên 1,2 tỉ USD vào tháng 6 so với 0, 87 triệu USD vào tháng 5. Xuất khẩu đã đạt 32,1 tỉ USD trong 6 tháng, nhưng nhập khẩu tăng lên 38,8 tỉ USD và thâm hụt thương mại vẫn ở mức cao 6,7 tỉ USD. Sau khi tỉ giá thị trường tự do và thị trường chính thức gần như bằng nhau 19.000ĐVN/1 USD trong quý 2, mới đây áp lực lên tỉ giá lại xuất hiện do (i) thâm hụt thương mại vẫn cao như nói trên; (ii) lo ngại mức tăng vọt của các khoản vay ngân hàng bằng USD sẽ gây ra mức cầu USD cao vào cuối năm để trả lại nợ ngân hàng; và (iii) vì dự trữ ngoại hối quốc gia nói chung vẫn ở mức thấp và vẫn chưa được công bố chính thức đều đặn khiến dễ sinh ra đồn đại trên thị trường tự do. Nói chung, thâm hụt kép ở mức cao của hai cán cân ngân sách và thương mại chưa cho thấy dấu hiệu cải thiện chắc chắn và vẫn là vấn đề cần phải quan tâm cho năm nay và trong thời gian trung hạn sắp tới. Nhưng vấn đề dài hạn xuất hiện nổi cộm với việc tái cấu trúc nền kinh tế Chuyện nợ lớn và khủng hoảng tài chính của VINASHIN vừa mới đây đã đặt lại những vấn đề dài hạn về chi tiêu và nợ công của chính phủ cũng như hiệu quả của toàn nền kinh tế. Vào ngày 16/7/2010, Thủ Tướng Chính phủ đã có bài viết về chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho 10 năm tới, đặc biệt nhấn mạnh 3 điểm :  Mục tiêu cấp bách tái cấu trúc nền kinh tế  Cải cách Doanh nghiêp Nhà nước (DNNN), nhất là các Tổng Công ty Nhà nước vốn được nhận nhiều ưu đãi  Vai trò tác động của các doanh nghiệp tư nhân trong tương lai Đây là vấn đề cần thời gian suy nghĩ và chắc chắn sẽ được Chính phủ thảo luận nhiều hơn trong thời gian vài tháng tới cho các lộ trình chính sách 5 năm (2011-2015) và 10 năm (2011-2020). Nhưng tựu trung chúng tôi thấy có hai khía cạnh chính lúc này :  Thay đổi căn bản trong kế hoạch đầu tư quốc gia nhằm : (i) làm giảm các thất thoát lãng phí khổng lồ gây sốc hiện tại trong các công trình đầu tư, nhất là các dự án với nguồn vốn quốc gia hay đi vay vốn ODA và các nguồn vốn tư nhân nước ngoài; (ii) tăng hiệu quả đầu tư bằng cách thật sự nâng cao vai trò của khu vực tư nhân và áp dụng kế hoạch đầu tư mới bớt dùng vốn công hơn; và (iii) trong tổng thể nhằm làm giảm hệ số ICOR giữa nhu cầu đầu tư và độ tăng trưởng đang quá cao của Việt Nam, phản ánh song hành tệ nạn thất thoát và kém hiệu quả trong đầu tư công.  Đặt ra vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô dài hạn nhằm chặn đứng tâm lý lạm phát phải đối phó từng năm như trong thời gian gần đây. Từ vấn đề tái cấu trúc kinh tế và guồng máy sản xuất… Tựu chung, kinh tế Việt Nam đã có được "tăng trưởng" với độ tăng GDP hàng năm cao trong thập niên qua, nhưng vẫn chưa "phát triển" được theo đúng nghĩa toàn bộ của nó với sự thiếu tính bền vững, thiếu chất lượng cao với các vấn đề xã hội như môi trường. Hạ tầng cơ sở cũng như nền giáo dục mỗi ngày một xuống dốc cần thay đổi để tạo sức cạnh tranh cần thiết cho nền kinh tế trong thập niên tới. Vấn đề căn bản cho kinh tế Việt Nam vẫn là chọn lựa thể chế thích hợp cho sản xuất. Chúng ta nên tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu sản xuất và phân bố nhiều tài nguyên qua khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhất là bằng các Tổng Công ty nhà nước, như đang làm hiện tại, hay cần thật sự tăng cường vai trò tác động của khu doanh nghiệp tư nhân—một bước đi mới quyết đoán trong tương lai? Và nếu muốn tăng cường vai trò của khu vực tư nhân, những chính sách thích hợp gồm cả tiền tệ lẫn tài khoá cần được nghiên cứu để đẩy mạnh đầu tư và sản xuất tư nhân qua việc thay đổi động cơ kinh doanh, cân bằng rủi ro và lợi nhuận cho hoạt động đầu tư. Với cơ chế và động cơ khuyến khích hiện nay, dường như đối với khu vực tư nhân những hoạt động đầu tư dài hạn có rủi ro cao và khả năng thu lợi thấp hơn những hoạt động đầu cơ ngắn hạn vào thị trường bất động sản. Việc này tạo những cơn "sốt", "bong bóng" trên thị trường trong nước—nhất là trong khu vực bất động sản-- và tiềm ẩn rủi ro đổ vỡ cho khu vực tài chính ngân hàng nếu không được giám sát. Hình 1 : Tỷ trọng đầu tư theo sở hữu qua các năm (%) – Tỷ trọng đầu tư ngoài nhà nước tăng không đáng kể từ sau năm 2004. Nguồn : Tổng cục thống kê Yếu tố cốt lõi là mô hình tăng trưởng từ 20 năm qua, dựa trên khuyến khích xuất khẩu và đầu tư cao với FDI và đầu tư của khu vực công, cần được tái cấu trúc với một chiến lược mới phát huy tốt hơn lợi thế so sánh của Việt Nam để tăng giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu và gia tăng các kỹ nghệ phụ trợ, đồng thời với việc phát triển thị trường trong nước bằng những mặt hàng với chất lượng cao hơn. "Người Việt dùng hàng Việt" có thể là chính sách khả thi với nhiều tiềm năng. Để dựa vào phát triển "nội lực", yếu tố căn bản là phải cải thiện chất lượng hoạt động điều hành và nguồn nhân lực trong khu vực công qua việc thực hiện kiên quyết chương trình cải cách hành chính, chế độ tiền lương hợp lý hơn với việc tăng năng suất (thí dụ : một người làm việc thay cho 2 người có thể được hưởng lương gấp đôi), và tăng cường giám sát và minh bạch công khai trong hệ thống. Trong đề tài tái cấu trúc nền kinh tế, bài của Thủ tướng cũng như ý kiến nhiều tác giả khác đã nhấn mạnh nền kinh tế đất nước hiện chủ yếu "phát triển theo chiều rộng" dựa vào các ngành tài nguyên và lao động chi phí thấp. Giải pháp sẽ là cần một quá trình thay đổi trung và dài hạn theo chiều sâu với một cơ cấu mới về phân bố và sử dụng nguồn lực của nền kinh tế một cách hợp lý và hiệu quả hơn. Để làm được việc này Việt Nam cần có chính sách phù hợp để phát triển khu vực doanh nghiệp qua việc thay đổi động cơ và khuyến khích cho hoạt động đầu tư như trình bầy ở trên. Với cơ cấu sản xuất hiện có luôn đưa đến nhập siêu cao và từ đó áp lực thường trực trên cán cân thanh toán quốc tế và tỉ giá, một trong những việc tái cấu trúc cấp thiết khác là giải quyết vấn đề nhập siêu khi có tốc độ tăng trưởng bền vững hơn. Các nền kinh tế khác ở Đông Á, sau khi có cùng vấn đề nhập siêu và thất thu cán cân vãng lai cao ở 1-2 thập niên đầu của chu kỳ tăng trưởng nhanh, thường đạt được mức xuất siêu đáng kể sau đó để có tăng trưởng bền vững do không bị áp lực của cán cân thanh toán và sau đó còn có thể tăng nhanh quỹ dự trữ ngoại hối như một gối dựa (cushion) tài chính vững chắc. Chúng ta sẽ cần một dự án tái cấu trúc toàn diện guồng máy sản xuất để giải quyết lâu dài vấn đề nhập siêu. Chúng ta cũng sẽ cần một dự án cải cách toàn diện nền giáo dục –nhất là giáo dục đại học—để chuyển dịch nhanh hơn nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ với nhiều chú trọng hơn về công nghệ thông tin chẳng hạn. Sau hết là một dự án nhằm vào việc công nghiệp hoá nông thôn nhanh hơn với các công nghệ để tăng năng suất nông nghiệp và cải thiện mãi lực của khu vực nông thôn. Liên hệ là các kêu gọi khẩn trương tăng tốc phát triển khu vực nông thôn và cải thiện đời sống nông dân, nhất là nhu cầu phát triển một nền nông nghiệp sạch để giải quyết đồng thời vấn đề cải thiện môi trường và hướng vào xuất khẩu các nông sản sạch đang có nhu cầu tăng cao trên thị trường khu vực (như từ Nhật Bản và Hàn Quốc) và quốc tế. …Sang đến vấn đề đầu tư công Vấn đề nan giải nhất là tỉ lệ đầu tư/GDP hiện tại của Việt Nam ở mức quá cao là 42%, do chiến lược chỉ đạo là dùng đầu tư cao của khu vực nhà nước để đạt mức tăng trưởng cao hàng năm. Đó cũng là nguyên nhân chính đưa đến thiếu hiệu quả trong đầu tư và tỉ lệ thất thoát cao. Ưu tiên quan trọng là phải giảm tỉ lệ cao này bằng nhiều biện pháp quyết liệt gồm cả việc thay đổi guồng máy đầu tư nhà nước và giảm ngân sách đầu tư công hàng năm trong 5 năm tới. Bước đột phá đề nghị là cải cách hành chính trong hoạt động đầu tư công : o Tách cơ quan quản lý khỏi kinh doanh o Ban hành một "luật Đầu tư công" tập trung vào việc tăng minh bạch công khai trong mua sắm và cơ chế giám sát, kiểm toán hiệu quả hơn với các dự án sử dụng vốn nhà nước o Tăng cường năng lực cho các tổ chức thanh tra giám sát các hoạt động đầu tư công như kiểm toán nhà nước, thanh tra chính phủ cũng như vai trò giám sát và phản biện của Quốc Hội với những dự án lớn và quan trọng.. Bước cụ thể là tăng hiệu quả đầu tư qua việc gia tăng đầu tư tư nhân nhằm giảm tỉ lệ đầu tư/GDP từ mức 42% hiện tại xuống còn 30% vào năm 2015, qua việc giới hạn mức đầu tư công xuống mức tối đa là 20% của GDP vào năm 2015, nhằm vào việc giảm chỉ số ICOR mà không làm phương hại đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6%-7% trong 5-10 năm tới. Riêng đầu tư nhà nước sẽ đặt trọng tâm hơn vào khu vực phát triển hạ tầng, với việc tăng tốc chương trình hợp tác công tư (Public-Private Partnership Program--PPP) để tăng cường vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực trọng yếu này. Nhiều nước tận dụng mô hình truyên thống như công ty cổ phần hay hình thức mới như quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng tư nhân để xã hội hoá hoạt động đầu tư và Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi từ kinh nghiệm bổ ích của nước ngoài trong lĩnh vực này. Một trong các điểm mấu chốt cho việc thành công của mô hình này là quản trị doanh nghiệp cần minh bạch hơn và có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ các nhà đầu tư. Trên đây mới chỉ là vài tiền đề góp ý vào thao thức và mạch nghĩ chung hiện nay của cả nước ý thức được sự cần thiết của thay đổi, của một tư duy mới cho nền kinh tế xã hội nói chung và một chiến lược phát triển cho 10 năm tới nói riêng, nhưng thật sự chúng ta vẫn loay hoay quanh việc tìm ra những ý kiến và hướng đi cụ thể. …Và sau hết là việc đánh giá của các cơ quan định mức tín nhiệm nước ngoài Ngày 29/7, hãng định mức tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings đã giảm một bậc định mức tín nhiệm nợ chính phủ của Việt Nam, từ BB- xuống mức B+. Đây là lần thứ 2 tổ chức này đã hạ bậc xếp hạng của Việt Nam sau lần trước vào tháng 7 năm 2009. Việc hạ bậc lần này của Fitch được dựa vào các lý do trong báo cáo của họ như sau : "Mức tín nhiệm nợ quốc gia của Việt Nam đã giảm xuống trong bối cảnh các dòng vốn từ bên ngoài yếu đi, nhu cầu gia tăng của Việt Nam về vốn để bù đắp cho thâm hụt cán cân vãng lai và trả nợ tới hạn, nền kinh tế bị Đô la hoá ở mức độ khá cao và hệ thống ngân hàng còn bộc lộ nhiều điểm yếu..." Mặc dù chúng ta có thể chưa đồng ý với một số điểm trong lập luận của họ và thông điệp không êm tai nói trên, nhưng thực tế là đánh giá mới này khiến việc vay vốn tương lai của Việt Nam sẽ trở thành khó khăn hơn và với lãi suất cao hơn. Do đó cũng nên coi đây là một cảnh báo cần thiết và đúng lúc cho việc giải quyết tình hình kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, vấn đề tài chính công đã được bàn đến ở trên, cũng như những vấn đề tồn đọng của hệ thống ngân hàng và tín dụng. Chỉ khi nào tình hình của nền tài chính nói chung được cải thiện theo nghĩa rộng này, chúng ta mới có thể hy vọng những dòng tiền đầu tư nước ngoài, cả trực tiếp (FDI) lẫn gián tiếp (FII) qua thị trường chứng khoán, sẽ tăng cường mạnh mẽ và đều đặn. Cộng thêm với lòng tin trở lại của giới đầu tư trong nước, từ đó mới hy vọng chấm dứt tình trạng "đóng băng" hiện tại và tái phát triển hai thị trường bất động sản và chứng khoán một cách bền vững. Từ cơn khủng hoảng nợ châu Âu xét tác động và rút bài học sớm cho Việt Nam Sau cơn bão nợ của Hy Lạp và gói tài chính tiếp cứu khẩn cấp của khối Euro và IMF lên đến 147 tỉ USD, đã tưởng tình hình có thể tạm yên với các vòi rồng lớn chữa cháy và sự chờ đợi thực hiện chính sách kinh tế đáp ứng mạnh mẽ của nước này cũng như các biện pháp phòng ngừa của vài nước láng giềng Nam Âu, nhất là Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Nhưng phản ứng tệ hại trên các thị trường tài chính thế giới, nhất là khi các thị trường chứng khoán Âu Mỹ và Nhật Bản mất từ 10%-15% giá trị trong tuần lễ ngay sau đó, đã cho thấy tác động của cơn bão này quan trọng hơn mọi quan sát viên quốc tế đang nghĩ rất nhiều. Phản ứng mới nhất cho là cơn hồi phục kinh tế thế giới sau khủng hoảng 2008-2009 có thể sẽ mang hình chữ W thay vì chữ V như mọi người hy vọng dạo đầu năm 2010. Vì tính cách quan trọng của vấn đề lây lan sang các nước láng giềng, bài này sẽ dựa trên các số liệu sơ khởi trên Internet về nợ công và chồng chéo của các nước có vấn đề ở Nam Âu, các giải pháp có thể bàn đến cũng như tác động lên việc duy trì khối Euro và ảnh hưởng đến nền kinh tế tài chính thế giới, tiếp đến là các nhận định khởi đầu cho ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam. Và sau cùng, thử rút ra vài bài học sớm có thể cho vấn đề nợ công liên hệ đến chính sách đầu tư công quá lớn đang được dùng ở Việt Nam. Nợ công lớn và chồng chéo ở Nam Âu Từ hình kèm đây được tr­ích từ trên mạng Internet như một tham khảo sơ khởi, các món nợ của các nước phia Nam châu Âu thật khổng lồ đối với 3 cường quốc châu lục là Đức, Pháp và Anh, và cả các món nợ chồng chéo với nhau. Trước hết là Hy Lạp đã được biết đến rộng rãi với món nợ 236 tỉ USD, quan trọng nhất là gồm nợ Pháp 75 tỉ, Đức 45 tỉ và Anh 15 tỉ. Tuy nhiên còn chưa thấm với 2 nước láng giềng được nói đến cũng đang trên bờ khủng hoảng là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha có món nợ tổng cộng là 1.100 tỉ USD, tức hơn 4 lần món nợ Hy Lạp, bao gồm 238 tỉ với Đức, 220 tỉ với Pháp và 114 tỉ với Anh. Nước này đang có tỉ lệ thất nghiệp là 20% và có nền kinh tế gần như yếu nhất châu lục. Bồ Đào Nha có món nợ tổng cộng là 286 tỉ USD, bao gồm 1/3 là nợ Tây Ban Nha (86 tỉ), rồi đến nợ Đức 47 tỉ, Pháp 45 tỉ và Anh 24 tỉ; nhưng Tây Ban Nha cũng nợ chéo lại là 28 tỉ. Hy Lạp cũng nợ Bồ Đào Nha gần 10 tỉ. Ngoài ra, cũng đáng để ý là Ý (Italy) có món nợ lớn tới 1.400 tỉ USD và Ireland nợ 867 tỉ USD, và cả hai đều mang nợ lớn với 3 nước đã kể là Đức, Pháp và Anh, dù hai nước chưa bị xếp vào tình trạng "báo động nợ". Nguồn : Bank for International Settlements (Internet) Chuyện gì sẽ xảy ra cho khối Euro? Từ nỗ lực cứu Hy Lạp đã dấy lên một làn sóng sợ hãi cho rằng một cuộc khủng hoảng nợ công tương tự có thể xảy ra tại một số nước khác như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, cũng như những hậu quả nghiêm trọng của nó đối với phục hồi kinh tế toàn cầu và thị trường tài chính thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế mới so với khủng hoảng của châu Á Cuộc khủng hoảng diễn ra tại Hy Lạp làm cho chúng ta nhớ lại khủng hoảng châu Á diễn ra vào năm 1997-1998, bắt nguồn từ Thái Lan sau đó lan sang Hàn Quốc và Inđônêsia. Tuy nhiên, sự giống nhau chỉ giới hạn ở bản chất của sự lây lan và các khoản nợ bên ngoài. Còn ngoài ra có nhiều sự khác nhau giữa cuộc khủng hoảng mới tại châu Âu so với cuộc khủng hoảng tại châu Á : - Các khoản nợ từ cuộc khủng hoảng cũ gần như là nợ tư, ngắn hạn, trong khi các khoản nợ hiện nay của châu Âu là các khoản nợ công trung và dài hạn với quy mô lớn hơn rất nhiều so với khoản nợ trước; - Tổng các khoản nợ trong cuộc khủng hoảng châu Á là 40 tỉ USD trong khi đó ước tính ban đầu của các khoản nợ tại 3 nước châu Âu lên tới 400-450 tỉ USD (riêng gói cứu trợ cho Hy Lạp lên tới 147 tỉ USD), gấp hơn 10 lần so với quy mô nợ tại châu Á; - Những nỗ lực cứu chữa cuộc khủng hoảng châu Á tuy rất khó khăn nhưng được khởi động nhanh chóng từ các chương trình của riêng IMF và được sự đồng tình chấp thuận từ các nước tham gia; - Trong khi đó, chương trình cứu trợ của EU-IMF thực hiện dưới sự phản kháng quyết liệt từ phía người dân Hy Lạp, điều này dấy lên nỗi lo lắng về tính khả thi của lập trình chính sách chữa trị. Sự chi tiêu bừa bãi cũng như sự nhập nhằng trong số liệu tài chính và nợ công nhằm vội vã thực hiện đủ tiêu chí gia nhập vào cộng đồng châu Âu của Hy Lạp được coi như nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng như hiện nay; - Điều phi lý là chỉ trong thời gian ngắn trước đó, khó tin được là một số nước châu Âu sẽ có ngày chấp nhận các biện pháp cứu trợ hà khắc của IMF. Sự hy sinh và gian khổ cần có khó có thể được ch
Luận văn liên quan