Với những ưu điểm vượt trội của thông tin quang thì việc ứng dụng thông tin quang trong mạng truy cập là điều cần thiết và tất yếu của xu hướng hiện nay. Mục đích của việc này là nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng gia tăng của người dùng viễn thông trong nước và quốc tế với các loại hình dịch vụ ngày càng phong phú, đặc biệt giải quyết được vấn đề “nút cổ chai” giữa mạng truy nhập và mạng đường trục hiện nay. Bên cạnh đó, chiến lược phát triển viễn thông phụ thuộc rất nhiều vào hiện trạng mạng viễn thông và định hướng phát triển viễn thông ở mỗi nước. Ở Việt Nam thì đây cũng không phải là một ngoại lệ.
81 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2476 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Mạng truy nhập quang thụ động Ethernet - EPON và phân phối băng thông trong EPON, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
HIỆN TRẠNG MẠNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN MẠNG TRUY NHẬP CỦA THẾ GIỚI
Với những ưu điểm vượt trội của thông tin quang thì việc ứng dụng thông tin quang trong mạng truy cập là điều cần thiết và tất yếu của xu hướng hiện nay. Mục đích của việc này là nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng gia tăng của người dùng viễn thông trong nước và quốc tế với các loại hình dịch vụ ngày càng phong phú, đặc biệt giải quyết được vấn đề “nút cổ chai” giữa mạng truy nhập và mạng đường trục hiện nay. Bên cạnh đó, chiến lược phát triển viễn thông phụ thuộc rất nhiều vào hiện trạng mạng viễn thông và định hướng phát triển viễn thông ở mỗi nước. Ở Việt Nam thì đây cũng không phải là một ngoại lệ. Chương này sẽ trình bày về hiện trạng mạng truyền dẫn của Việt Nam, xu hướng phát triển viễn thông trên thế giới và tổng quan về mạng truy nhập quang thụ động.
1.1 Hiện trạng mạng viễn thông của Việt Nam
Mạng viễn thông Việt Nam hiện tại được chia thành ba thành phần chính bao gồm : Cấp quốc tế, cấp quốc gia, cấp nội tỉnh như Hình 1.1
Truyền dẫn Quốc Tế
Hệ thống TVH với dung lượng mỗi hướng 560Mbps được đưa vào khai thác tháng 11 năm 1995 kết nối 3 nước Thái Lan, Việt Nam và Hồng Công.Tại Việt Nam hệ thống cập bờ tại Đài cáp quang biển quốc tế Vũng Tàu
Hệ thống SMW-3 dung lượng 80Gbps được đưa vào khai thác tháng 9 năm 1999 kết nối Việt Nam với gần 40 nước Á – Âu. Hệ thống cập bờ tại Đài cáp quang biển quốc tế Đà Nẵng.
Tuyến cáp quang biển AAG-Asia America Gateway có chiều dài 20.000 km và dung lượng lên tới 500 Gbps, kết nối trực tiếp từ khu vực Đông Nam Á tới Mỹ, đi qua các nước và vùng lãnh thổ Malaysia, Singapore, Thái Lan, Việt Nam, Brunei, Hồng Kông, Philippines và Hoa Kỳ. Dự kiến AAG sẽ được nâng cấp lên 2 Tbps và mở rộng phạm vi kết nối tới Australia, Ấn Độ, châu Âu và Châu Phi.
Tuyến cáp quang đất liền là CSC, dung lượng 2,5Gbps kết nối Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Malaysia và Singapore, tuyến Việt Nam-Campuchia, dung lượng 155Mbps.
Ngoài ra còn có các trạm thông tin vệ tinh mặt đất.
Trạm mặt đất HAN-1A
Trạm mặt đất SBE-1A
Trạm mặt đất SBE-2A
Trạm mặt đất SBE-3A
Trạm mặt đất HAN-2B
Trạm mặt đất Hoa Sen -1
Trạm chủ VSAT DAMA
Trạm cổng VSAT IP
1.1.2 Truyền dẫn Quốc Gia
Mạng đường trục quốc gia bao gồm mạng cáp quang Bắc - Nam dung lượng 360 Gbps, cáp quang dọc theo tuyến 500 KV, cáp quang ven biển, cáp quang dọc dãy Trường Sơn. Mạng được kết nối vòng Ring để đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt trong mọi tình huống.
Cuối năm 2004, mạng NGN-Next Generation Network đã được đưa vào khai thác dựa trên công nghệ chuyển mạch gói, cho phép triển khai đa dạng và nhanh chóng các dịch vụ, đáp ứng sự hội tụ giữa thoại và số liệu, giữa sự cố định và di động với Internet băng rộng.
1.1.3 Truyền dẫn nội tỉnh
Các tuyến vi ba số PDH.
Các tuyến cáp quang nội tỉnh.
Mạng truy nhập thuê bao sử dụng cáp đồng.
1.2 Sự phát triển của lưu lượng
Lưu lượng dữ liệu ngày càng tăng với một tốc độ chưa từng thấy. Có thể chứng minh được tốc độ tăng lưu lượng dữ liệu trên 100% mỗi năm từ những năm 1990. Có một thời kỳ mà sự kết hợp giữa các nhà máy kỹ thuật và kinh tế đã làm cho tốc độ tăng lên rất cao, ví dụ năm 1995, 1996 mỗi năm tăng một nghìn phần trăm. Xu hướng online và họ sẽ sẵn sàng online để trải qua nhiều thời gian và sử dụng những ứng dụng đòi hỏi băng thông lớn. Việc nghiên cứu thị trường cho thấy, sau khi nâng cấp lên băng rộng người dùng đã online nhiều hơn 35% so với trước. Lưu lượng thoại cũng tăng nhưng tốc độ chậm hơn 8% mỗi năm. Theo như hầu hết các nhà phân tích thì lưu lượng dữ liệu đã vượt trội lưu lương thoại. Nhiều dịch vụ và ứng dụng sẽ trỡ thành hiện thực khi mà băng thông mỗi người dùng được tăng lên. Cả DSL-Digital Subscriber Line và cáp modem đều không thể theo kịp nhu cầu. Cả hai công nghệ này đều là những kiến trúc truyền thông được xây dựng hàng đầu hiện nay nhưng không tối ưu hoá cho lưu lượng dữ liệu. Trong mạng cáp Modem, chỉ một vài kênh RF được chỉ định cho dữ liệu trong khi phần lớn băng thông dành cho video tương tự. Mạng cáp đồng DSL không thể phù hợp với tốc độ dữ liệu ở khoảng cách yêu cầu do méo và nhiễu xuyên tâm tín hiệu. Hầu hết các nhà hoạt động mạng đều nhận thức rõ rằng sự cần thiết của một giải pháp tập trung dữ liệu, các dịch vụ truyền thống như thoại, video sẽ hội tụ vào định dạng số với đầy đủ các dịch vụ sẽ ra đời.
1.3 Xu hướng phát triển hiện nay
Trong những năm gần đây, mạng đường trục đã có một sự phát triển vượt bậc, tuy nhiên mạng truy cập ít có sự thay đổi. Sự phát triển kinh khủng của lưu lượng Internet càng làm trầm trọng thêm sự chậm trễ của dung lượng mạng truy cập. Đó chính là vấn đề “nút cổ chai” giữa mạng truy nhập và mạng đường trục. Giải pháp băng rộng được triển khai phổ biến hiện nay là DSL và mạng cáp Modem. Mặc dầu nó đã có sự cải thiện đáng kể so với đường dây dial-up 56Kbps, tuy nhiên nó không thể cung cấp đủ băng thông cho các dịch vụ như video, trò chơi tương tác hay hội nghị truyền hình. Một công nghệ mới đã được đưa ra, có chi phí đầu tư không cao, đơn giản, có thể nâng cấp, có khả năng hội tụ các dịch vụ thoại dữ liệu và video đến người dùng trên một mạng đơn. Đó là EPON-Ethernet Passive Optical Network, là giải pháp truy nhập quang sử dụng mạng quang thụ động PON-Passive Optical Network kết hợp với giao thức Ethernet. Giải pháp này mang ưu điểm của cả hai công nghệ PON với băng rộng và Ethernet được thiết kế phù hợp tải mang lưu lượng IP. Đây là một công nghệ truy nhập được kỳ vọng trong những năm tới và cũng được xem như là một trong những công nghệ động lực để tiến đến mạng toàn quang.
1.4 Mạng truy nhập thế hệ sau
Nguồn: Ethernet Passive Optical Network Tutorial
Hình 1.2 : Các mô hình phân bổ sợi quang đến thuê bao
Sợi quang có khả năng phân phối băng thông cao, tích hợp dịch vụ thoại, dữ liệu và video với khoảng cách trên 20 km trong mạng truy nhập. Phương thức vật lý để triển khai sợi quang trong mạng truy nhập nội hạt là sử dụng mô hình điểm điểm Point to Point, với sợi quang chạy từ CO - Central Office đến mỗi đầu cuối thuê bao như Hình 1.2a. Kiến trúc này đơn giản tuy nhiên chi phí khá cao. Chúng ta xét N thuê bao với khoảng cách trung bình so với CO là L km thì mô hình Point to Point yêu cầu 2N bộ thu phát và NxL tổng chiều dài sợi quang.
Để giảm chiều dài sợi quang, chúng ta có thể sử dụng các chuyển mạch từ xa như Hình 1.2b, phương thức này làm giảm chiều dài sợi quang chỉ còn L km với khoảng cách giữa chuyển mạch và người dùng không đáng kể nhưng sẽ làm tăng số lượng bộ thu phát lên 2N+2. Ngoài ra, kiến trúc mạng chuyển mạch cụm thuê bao yêu cầu năng lượng điện cũng như năng lượng sao lưu tại Curb-switch.
Hiện tại, một trong những chi phí cao nhất của các nhà cung cấp dịch vụ nội hạt là cung cấp và bảo quản năng lượng điện trong vòng nội hạt. Cho nên, thật hợp lý khi thay các chuyển mạch cụm thuê bao bằng các bộ quang thụ động rẻ tiền như ở Hình 1.2c.
PON là một kỹ thuật được xem xét với nhiều ưu điểm như số lượng các bộ thu phát quang, thiết bị đầu cuối CO và sợi quang ít. PON là mạng quang điểm đa điểm Point to MultiPoint với các phần tử không kích hoạt trong đường dẫn tín hiệu từ nguồn đến đích. Chỉ các phần tử được sử dụng bên trong mạng PON là các linh kiện quang thụ động như là sợi quang, bộ nối và bộ chia quang. Một mạng truy nhập dựa trên một sợi quang đơn chỉ yêu cầu N+1 bộ thu phát và L km sợi quang
1.5 So sánh giữa các giải pháp truy nhập và thị trường mạng quang thụ động toàn cầu
Bảng 1.1: Doanh thu từ mạng truy nhập quang thụ động toàn cầu 2003 - 2008
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng doanh thu từ FTTH+ FTTB
221,4
triệu USD
363,4
triệu USD
547,7
triệu USD
754,7
triệu USD
979,9
triệu USD
1161,5
triệu USD
Nguồn: Internet
Bảng 1.2: So sánh giữa các giải pháp truy nhập
Công nghệ
Tốc độ cực đại
Khoảng cách cực đại
Chỉ tiêu đánh giá
Tốc độ
Khoảng cách
Chia sẻ môi trường
Chi phí
Độ tin cậy
Cáp đồng
DSL
1.5
3200
Thấp
Trung bình
Không
Trung bình
Trung bình
Đồng trục
10
3200
Trung bình
Trung bình
Có
Cao
Trung bình
CAT-5
100
300
Cao
Gần
Không
Trung bình
Trung bình
Sợi quang
Đa mode
>10
10000
Cao
Trung bình
Không
Trung bình
Cao
Đơn mode
>10
100000
Cao
Xa
Không
Trung bình
Cao
PON
100
10000
Cao
Trung bình
Có
Trung bình
Cao
Vô tuyến
Satellite
<1
N/A
Thấp
Trung bình
Có
Cao
Trung bình
Wifi
<11
100
Trung bình
Trung bình
Có
Cao
Cao
802.11a
50
20
Cao
Gần
Có
Cao
Trung bình
Blutooth
10
3
Trung bình
Gần
Có
Cao
Trung bình
Nguồn: Internet
* Nền kinh tế có ít nhất 200.000 hộ gia đình
Nguồn: Fiber-to-the-Home council, September 2010
Hình 1.3 : Thị trường băng rộng FTTx toàn cầu
1.6 Kết luận chương
Như nội dung đã trình bày ở trên, mạng đường trục là mạng với tốc độ dữ liệu cao lên đến hàng Gbps và được áp dụng công nghệ chuyển mạch gói với sự hội tụ của thoại, dữ liệu và video tốc độ cao. Trong khi đó, mạng truy nhập hầu như không có một sự phát triển tương xứng. Gần đây, với công nghệ DSL đã giảm bớt phần nào vấn đề “nút cổ chai” tuy nhiên vẫn chưa giải quyết triệt để vấn đề này. Vì vậy việc nâng cấp mạng truy nhập là việc làm tất yếu. Tuy nhiên, kỹ thuật nào được lựa chọn. Với nhưng ưu điểm vượt trội của mình mạng quang thụ động Ethernet-EPON là một giải pháp hữu hiệu cho mạng truy nhập. Mạng quang thụ động Ethernet là sự kết hợp giữa mạng quang thụ động và công nghệ Ethernet. Sự kết hợp này sẽ được trình bày cụ thể trong những chương tiếp theo
Chương 2
CÔNG NGHỆ ETHERNET
FASN theo ITU G.983 định nghĩa một mạng truy nhập quang dựa trên công nghệ PON sử dụng ATM, như là giao thức lớp hai của nó. Vào năm 1995, khi mà việc khởi xướng được bắt đầu, ATM có hy vọng cao để trở thành công nghệ thịnh hành trong mạng LAN, MAN và mạng đường trục. Tuy nhiên, cũng từ thời gian đó, công nghệ Ethernet đã đẩy lùi ATM. Ethernet đã trở thành một chuẩn được chấp nhận phổ biến với trên 320 triệu cổng triển khai trên toàn thế giới. Việc triển khai Gigabit Ethernet tốc độ cao và họ sản phẩm 10 Gigabit Ethernet đã trở thành hiện thực. Ethernet dễ dàng triển khai và quản lý, đang chiến thắng vùng đất mới trong MAN và WAN. Suy cho cùng thì 95% LAN sử dụng Ethernet nên ATM-PON không thể là lựa chọn tốt nhất cho việc kết nối mạng Ethernet.
Một thiếu sót của ATM là việc hư hỏng và sai lệch của các cell ATM sẽ làm mất hiệu lực hoàn toàn khung IP. Tuy nhiên các cell còn lại sẽ mang mức của cùng khung IP sẽ được truyền xa hơn, vì vậy việc chi phối tài nguyên mạng là không cần thiết. Ngoài ra, có lẽ điều quan trọng nhất là ATM không thể đạt được một công nghệ chi phí thấp như mong muốn. Các chuyển mạch ATM và Card mạng là khá đắt so với chuyển mạch Ethernet và Card mạng Ethernet.
Kỹ thuật QoS được chấp nhận mới P802.1p, đã làm cho mạng Ethernet có khả năng cung cấp thoại, data và video. Kỹ thuật này bao gồm mô hình truyền dẫn song công và sự ưu tiên. Ethernet là công nghệ với chi phí thấp, phổ biến và phù hợp với nhiều thiết bị cũ khác nhau. Vì vậy, trong chương này sẽ trình bày tổng quan về kỹ thuật Ethernet, kiến trúc khung của Ethernet và quan hệ giữa Ethernet với mô hình 7 lớp OSI.
2.1 Tổng quan về Ethernet
Thuật ngữ Ethernet được quy vào họ sản phẩm của mạng LAN thuộc chuẩn 802.3 và được định nghĩa như là một giao thức truy nhập đa sóng mang có phát hiện va chạm CSMA/CD: Carrier Sence Multiple Access/Collision Detect. Hiện tại có 4 tốc độ dữ liệu được định nghĩa cho hoạt động trên cáp sợi quang:
10Mps-10BaseT Ethernet.
100Mbps-Fast Ethernet.
1000Mbps-Gigabit Ethernet.
10000Mbps-10Gigabit Ethernet.
Nhiều giao thức và công nghệ khác nhau được đưa ra nhưng Ethernet vẫn tồn tại như là một công nghệ LAN bởi giao thức của nó có những đặc tính sau:
Dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ quản lý và bảo dưỡng.
Cho phép triển khai mạng với chi phí thấp.
Cung cấp nhiều mô hình linh hoạt cho việc cài đặt mạng.
Bảo đảm kết nối thành công và hoạt động theo tiêu chuẩn của sản phẩm, bất
chấp nhà chế tạo…
2.2 Các phần tử của mạng Ethernet
Mạng LAN Ethernet bao gồm các node mạng và phương tiện liên kết. Các node mạng nằm trong hai lớp chính:
DTE - Data Terminal Equipment: là thiết bị nguồn hay đích của khung dữ
liệu. Các thiết bị DTE điển hình như PC, trạm làm việc, file server hoặc print server như là một nhóm ở trạm đầu cuối.
DCE - Data Communication Equipment: là các thiết bị mạng trung gian có
nhiệm vụ nhận và chuyển tiếp các khung dữ liệu thông qua mạng. DCE có thể là các thiết bị Standalone như là bộ lặp, bộ chuyển mạch hay các thiết bị giao tiếp truyền thông như là Card giao tiếp.
Các thiết bị mạng trung gian Standalone được xem như là một node trung gian hoặc DCE. Card giao tiếp mạng được xem như là một NIC - Network Interface Card.
2.3 Kiến trúc mô hình mạng Ethernet
Mạng LAN có nhiều mô hình kiến trúc khác nhau, nhưng bất chấp sự rắc rối và kích cở của nó, tất cả đều kết hợp từ ba kiến trúc kết nối cơ bản:
Kiến trúc đơn giản nhất là kết nối điểm-điểm.
Nguồn : Internetworking Technologies Handbook
Hình 2.1: Mô hình kết nối điểm-điểm
Chỉ 2 đơn vị mạng được kết nối với nhau và kết nối này có thể là DTE với DTE, DTE với DCE, DCE với DCE. Dây cáp trong kết nối điểm điểm được gọi là network link. Chiều dài cho phép lớn nhất của cáp phụ thuộc vào kiểu cáp và phương thức truyền được sử dụng.
Mạng Ethernet cơ sở được thực hiện với kiến trúc bus cáp đồng trục.
Nguồn : Internetworking Technologies Handbook
Hình 2.2: Mô hình kết nối bus đồng trục
Chiều dài của Segment được giới hạn ở 500m và có thể kết nối 100 trạm vào một Segment. Từng Segment có thể kết nối với các trạm lặp, miễn là nhiều đường không tồn tại giữa hai trạm bất kỳ trên mạng và số lượng DTE không vượt quá giá trị qui định.
Mặc dầu những mạng mới không được kết nối trong cấu hình bus nhưng một vài mạng bus cũ vẫn tồn tại và vẫn được sử dụng hữu ích.
Từ đầu thập niên 90, cấu hình mạng được lựa chọn là mô hình kết nối sao.
Nguồn : Internetworking Technologies Handbook
Hình 2.3: Mô hình kết nối sao
Đơn vị mạng trung tâm là bộ lặp đa cổng hay còn gọi là Hub hoặc là một chuyển mạch mạng. Tất cả kết nối trong mạng sao là kết nối điểm điểm được thực hiện với cáp sợi quang.
2.4 Quan hệ vật lý giữa IEEE802.3 và mô hình tham chiếu OSI
Hình 2.4 mô tả các lớp vật lý của IEEE802.3 và quan hệ của nó với mô hình tham chiếu OSI. Với giao thức IEEE802, lớp liên kết dữ liệu trong OSI được chia thành hai lớp con IEEE802: lớp con MAC-Media Access Control và lớp con MAC-Client.
Lớp vật lý IEEE802.3 tương đương với lớp vật lý OSI.
Nguồn : Internetworking Technologies Handbook
Hình 2.4: Quan hệ vật lý của Ethernet với mô hình tham chiếu OSI
Lớp con MAC-Client có thể là một trong các lớp con sau:
Là lớp con LLC-Logical Link Control, nếu đầu cuối là một DTE. Lớp con
này cung cấp giao tiếp giữa Ethernet MAC và lớp trên trong ngăn giao thức của trạm đầu cuối. Lớp con LLC được định nghĩa trong chuẩn IEEE802.2.
Là thực thể cầu nối Bridge Entity, nếu đầu cuối là DCE. Thực tế cầu nối
cung cấp giao tiếp LAN to LAN giữa các mạng LAN sử dụng cùng giao thức, ví dụ Ethernet to Ethernet và cũng cung cấp giữa các giao thức khác nhau, ví dụ Ethernet với Token Ring. Thực thể cầu nối được định trong chuẩn IEEE802.1.
Bởi vì đặc điểm kỹ thuật của LLC và thực thể cầu nối là chung cho tất cả các giao thức LAN IEEE802, tính tương thích của mạng là cơ sở của các giao thức mạng đặc biệt. Hình 2.5 minh hoạ các yêu cầu tương thích khác nhau được lợi dụng bởi lớp vật lý và lớp MAC trong truyền thông dữ liệu cơ sở trên kết nối Ethernet.
Nguồn : Internetworking Technologies Handbook
Hình 2.5: Lớp vật lý và lớp MAC tương thích với các yêu cầu cho truyền thông dữ liệu cơ sở
Lớp MAC điều khiển sự truy nhập của một node đến phương tiện truyền thông của mạng và đặc biệt là đến các giao thức riêng biệt. Tất cả lớp MAC phải có thiết lập cơ bản về các yêu cầu vật lý, bất chấp liệu có phải chúng bao gồm một hay nhiều giao thức mở rộng được lựa chọn định nghĩa. Chỉ những nhu cầu cho truyền thông cơ sở hay còn gọi là truyền thông không có nhu cầu lựa chọn giao thức mở rộng giữa hai node mạng thì cả hai lớp MAC phải hổ trợ cùng tốc độ truyền.
Lớp vật lý 802.3 qui định rõ tốc độ truyền dữ liệu, mã hoá tín hiệu, và kiểu kết nối phương tiện giữa hai node. Ví dụ, Gigabit Ethernet định nghĩa hoạt động trên cáp xoắn đôi hoặc cáp sợi quang, nhưng tuỳ theo mỗi thủ tục mã hoá tín hiệu hoặc từng kiểu cáp riêng biệt mà yêu cầu một sợi thi hành lớp vật lý khác nhau.
2.5 Lớp con MAC Ethernet
Lớp con MAC có hai chức năng chính:
Đóng gói dữ liệu kể cả đóng khung trước khi truyền, phân tích và dò lỗi
trong suốt và sau khi nhận khung.
Điều khiển truy nhập phương tiện bao gồm khởi tạo một sự truyền khung
và phục hồi lại sự truyền bị hỏng.
2.5.1 Dạng khung cơ bản của Ethernet
Chuẩn 802.3 định nghĩa dạng khung dữ liệu cơ bản được yêu cầu cho tất cả sự thi hành của MAC, cộng thêm một vài khuôn dạng để chọn bổ sung mà được sử dụng để mở rộng giao thức. Dạng khung dữ liệu cơ sở gồm có 7 trường:
Nguồn : Internetworking Technologies Handbook
Hình 2.6: Dạng khung dữ liệu MAC Ethernet cơ bản
PRE-Preamble: gồm có 7 byte. PRE là các mức logic 0 và 1 xen kẻ nhau
để báo cho trạm nhận khung dữ liệu đang đến và cung cấp phương tiện để đồng bộ mức thu nhận khung của lớp vật lý bên nhận với luồng bit đến.
DA-Destination Address: trường DA xác định trạm sẽ nhận khung. Một
bit ngoài cùng bên trái chỉ định có phải là địa chỉ của một địa chỉ cá nhân được chỉ định bởi 0 hoặc của một nhóm địa chỉ được chỉ định bởi 1. Bit thứ hai kể từ bên trái chỉ định có phải DA là điều hành toàn bộ được chỉ định mức 0 hoặc điều hành nội bộ được chỉ định mứt 1, 46 bit còn lại là một nhóm các trạm hoặc tất cả các trạm trên mạng.
SA-Source Address: 6 byte: trường SA xác định trạm nguồn.
Trường SA luôn là địa chỉ duy nhất và bit đầu tiên bên trái luôn ở mức 0.
Length/Type -4byte: Trường này chỉ định số byte dữ liệu của lớp con
MAC-Client mà được chứa trong trường dữ liệu của khung hoặc kiểu ID khung nếu khung được tập hợp sử dụng một dạng khung lựa chọn. Nếu giá trị của trường Length/Type ít hơn hoặc bằng 1500, số byte của LLC trong trường dữ liệu bằng giá trị của trường Length/Type. Nếu lớn hơn 1536, khung này là một kiểu khung lựa chọn và giá trị của trường Length/Type chỉ định kiểu của khung sẽ được gởi và nhận.
Data: Là sự nối tiếp của n byte giá trị bất kỳ với n ( 1500. Nếu chiều dài
của trường dữ liệu nhỏ hơn 46, trường dữ liệu phải được mở rộng bằng cách thêm một filler thích hợp để mang trường dữ liệu dài 46 byte.
FCS-Frame Check Sequence: 4 byte: trường này chứa một giá trị 32 bit
kiểm tra độ dư vòng được tạo bởi lớp MAC bên gởi và được tính toán lại ở lớp MAC bên thu để kiểm tra độ hư hại của khung. FCS được phát trên các trường DA,SA, Length/Type và Data.
2.5.2 Sự truyền khung dữ liệu
Bất cứ lúc nào, một trạm MAC đầu cuối nhận một yêu cầu truyền khung kèm theo địa chỉ và thông tin dữ liệu từ lớp con LLC, lớp MAC bắt đầu truyền một cách tuần tự bằng cách truyền thông tin LLC vào bộ đệm khung lớp MAC.
Định ranh giới mào đầu khung được chèn vào trường PRE và SOF.
Địa chỉ nguồn và đích được chèn vào trường địa chỉ.
Số byte dữ liệu LLC được tính và chèn vào trường Length/Type.
Số byte dữ liệu LLC được chèn vào trường dữ liệu. Nếu lượng byte dữ liệu
LLC nhỏ hơn 46 thì phải đệm thêm để trường dữ liệu dài 46byte.
Một giá trị FCS được phát trên trường DA, SA, Length/Type, data và được
gán vào phần sau của trường dữ liệu.
Sau khi khung được tập hợp, quá trình phát khung phụ thuộc vào lớp MAC hoạt động ở chế độ đơn công hay s