Đồ án Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN14, vụ đông năm 2011 tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

Cây ngô (Zea Mays L.) thuộc chi Maydeae, họ hoà thảo Gramineae, là một trong 3 cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn thế giới. Ở các nước thuộc Trung Mỹ, Nam Á và Châu Phi, người ta sử dụng ngô làm lượng thực chính. Không chỉ cung cấp lượng thực cho con người, ngô còn là nguồn thức ăn cung cấp cho chăn nuôi, là nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến. Hiện nay 66% sản lượng ngô của thế giới được dùng làm thức ăn cho chăn nuôi, trong đó các nước phát triển là 76% và các nước đang phát triển là 57%. Tuy chỉ có 21% sản lượng ngô được dùng làm lương thực, nhưng nhiều nước vẫn coi ngô là cây lương thực chính, như: Mexico, Ấn Độ, Philipin. Ở Ấn Độ có tới 90% sản lượng ngô, ở Philipin có 66% sản lượng ngô được dùng làm lương thực cho con người (Dương Văn Sơn và ctv, 1997) [14]. Nhờ những vai trò quan trọng của cây ngô trong nền kinh tế thế giới nên hơn 40 năm gần đây, ngành sản xuất ngô thế giới phát triển mạnh và giữ vị trí hàng đầu về năng suất, sản lượng trong những cây lương thực chủ yếu. Mặc dù diện tích trồng ngô đứng thứ 3 sau lúa mỳ và lúa nước, nhưng sản lượng ngô chiếm 1/3 sản lượng ngũ cốc trên thế giới và nuôi sống 1/3 dân số toàn cầu. Năm 1961 diện tích trồng ngô chỉ đạt 105,55 triệu ha với tổng sản lượng là 205,03 triệu tấn, nhưng đến năm 2010 diện tích trồng ngô đã đạt 162,30 triệu ha với sản lượng 820,60 triệu tấn (theo thống kê của FAO, 2011) [33]. Hiện nay do nhu cầu sử dụng ngô không ngừng tăng, để đáp ứng đủ nhu cầu ngô cho tiêu dùng trong nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã xây dựng chiến lược phát triển sản xuất ngô đến năm 2020 là phải đạt 9- 10 triệu tấn. Để đạt được mục tiêu này, hai giải pháp chính được đưa ra là mở rộng diện tích và tăng năng suất. Tuy nhiên việc mở rộng diện tích trồng ngô rất khó khăn do diện tích sản xuất nông nghiệp còn hạn chế và phải cạnh tranh với nhiều loại cây trồng khác nên tăng năng suất là giải pháp chủ yếu. Đặc biệt là sử dụng những giống ngô lai cho năng suất cao thay thế cho những giống ngô địa phương cho năng suất thấp. Sự sinh trưởng, phát triển của cây phụ thuộc vào tác dụng tổng hợp của các yếu tố: ánh sáng, nước, nhiệt độ, thức ăn. Thực tế sản xuất cho thấy người ta coi phân bón là đòn bẩy tăng năng suất cây trồng. Tuy nhiên để bón phân đạt hiệu quả cao cần nghiên cứu, xác định mức phân bón thích hợp cho từng giống và từng vùng sản xuất. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN14, vụ đông năm 2011 tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”.

doc87 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2234 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN14, vụ đông năm 2011 tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI “Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN14, vụ đông năm 2011 tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên” Giáo viên hướng dẫn :Ths Phạm Thị Thu Huyền Sinh viên thực hiện :Nguyễn Văn Trọng MỤC LỤC Phần 1: Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Cây ngô (Zea Mays L.) thuộc chi Maydeae, họ hoà thảo Gramineae, là một trong 3 cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn thế giới. Ở các nước thuộc Trung Mỹ, Nam Á và Châu Phi, người ta sử dụng ngô làm lượng thực chính. Không chỉ cung cấp lượng thực cho con người, ngô còn là nguồn thức ăn cung cấp cho chăn nuôi, là nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến. Hiện nay 66% sản lượng ngô của thế giới được dùng làm thức ăn cho chăn nuôi, trong đó các nước phát triển là 76% và các nước đang phát triển là 57%. Tuy chỉ có 21% sản lượng ngô được dùng làm lương thực, nhưng nhiều nước vẫn coi ngô là cây lương thực chính, như: Mexico, Ấn Độ, Philipin. Ở Ấn Độ có tới 90% sản lượng ngô, ở Philipin có 66% sản lượng ngô được dùng làm lương thực cho con người (Dương Văn Sơn và ctv, 1997) [14]. Nhờ những vai trò quan trọng của cây ngô trong nền kinh tế thế giới nên hơn 40 năm gần đây, ngành sản xuất ngô thế giới phát triển mạnh và giữ vị trí hàng đầu về năng suất, sản lượng trong những cây lương thực chủ yếu. Mặc dù diện tích trồng ngô đứng thứ 3 sau lúa mỳ và lúa nước, nhưng sản lượng ngô chiếm 1/3 sản lượng ngũ cốc trên thế giới và nuôi sống 1/3 dân số toàn cầu. Năm 1961 diện tích trồng ngô chỉ đạt 105,55 triệu ha với tổng sản lượng là 205,03 triệu tấn, nhưng đến năm 2010 diện tích trồng ngô đã đạt 162,30 triệu ha với sản lượng 820,60 triệu tấn (theo thống kê của FAO, 2011) [33]. Hiện nay do nhu cầu sử dụng ngô không ngừng tăng, để đáp ứng đủ nhu cầu ngô cho tiêu dùng trong nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã xây dựng chiến lược phát triển sản xuất ngô đến năm 2020 là phải đạt 9- 10 triệu tấn. Để đạt được mục tiêu này, hai giải pháp chính được đưa ra là mở rộng diện tích và tăng năng suất. Tuy nhiên việc mở rộng diện tích trồng ngô rất khó khăn do diện tích sản xuất nông nghiệp còn hạn chế và phải cạnh tranh với nhiều loại cây trồng khác nên tăng năng suất là giải pháp chủ yếu. Đặc biệt là sử dụng những giống ngô lai cho năng suất cao thay thế cho những giống ngô địa phương cho năng suất thấp. Sự sinh trưởng, phát triển của cây phụ thuộc vào tác dụng tổng hợp của các yếu tố: ánh sáng, nước, nhiệt độ, thức ăn. Thực tế sản xuất cho thấy người ta coi phân bón là đòn bẩy tăng năng suất cây trồng. Tuy nhiên để bón phân đạt hiệu quả cao cần nghiên cứu, xác định mức phân bón thích hợp cho từng giống và từng vùng sản xuất. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng đạm bón vào thời kỳ 7 - 9 lá đến sinh trưởng và năng suất của giống ngô LVN14, vụ đông năm 2011 tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”. 1.2. Mục tiêu của đề tài Xác định được lượng đạm thích hợp bón cho giống ngô LVN14 vào thời kỳ 7 – 9 lá nhằm tăng năng suất và hiệu quả kinh tế, góp phần phát triển giống ngô này ra ngoài sản xuất. 1.3. Yêu cầu của đề tài - Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của giống ngô LVN14 qua các công thức đạm khác nhau. - Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại và khả năng chống đổ của giống ngô LVN14. - Nghiên cứu các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống ngô LVN14 qua các công thức đạm 1.4. Ý nghĩa của đề tài 1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học - Đối với học tập: Giúp các học viên củng cố kiến thức, có điều kiện tiếp cận với phương pháp nghiên cứu khoa học và áp dụng được những kiến thức lý thuyết đã học vào trong thực tiễn sản xuất. - Đối với nghiên cứu khoa học: Kết quả của đề tài mở ra hướng nghiên cứu mới về phương pháp bón phân nói chung và bón đạm nói riêng cho ngô và các loại cây trồng khác từ đó giúp nâng cao năng suất các loại cây trồng, đồng thời giúp ổn định Nitơrat trong đất, nâng cao hiệu lực đạm, giảm chi phí sản xuất và bảo vệ môi trường sống. Giúp sinh viên biết cách viết, trình bày một báo cáo khoa học. 1.4.2. Ý nghĩa trong thực tế sản xuất Kết quả của nghiên cứu sẽ đưa ra được lượng phân đạm thích hợp để giống ngô LVN14 đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài Ở Việt Nam, nông nghiệp nông thôn có vị trí rất quan trọng. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn và đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn để đẩy nhanh sự phát triển của khu vực này. Trải qua các giai đoạn phát triển, nông dân, nông nghiệp và nông thôn đã có những đóng góp tạo nên những thành tựu lớn trong công cuộc đổi mới. Cho đến nay, nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển tương đối toàn diện, tăng trưởng khá, quan hệ sản xuất từng bước đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá. Những thành tựu đó đã góp phần rất quan trọng vào sự ổn định kinh tế - xã hội, tạo tiền đề đẩy nhanh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đóng góp một phần không nhỏ đối với sự phát triển đó là hệ thống các cây lương thực, trong đó có cây ngô. Tuy hiện nay cây lúa vẫn đang giữ vị trí đứng đầu về sản lượng cũng như tầm quan trọng nhưng với khả năng phát triển trong tương lai, cây ngô đã từng bước tự chứng tỏ được mình. Ngô là cây trồng quang hợp theo chu trình C4, có tiềm năng năng suất cao mà không một cây ngũ cốc nào có thể so sánh kịp. Để nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng thì yếu tố quyết định chính là giống. Nhưng giống chỉ phát huy hết tiềm năng năng suất khi được bón phân đầy đủ, được gieo trồng ở vùng có điều kiện khí hậu, đất đai, trình độ thâm canh và điều kiện kinh tế xã hội phù hợp. Trong các nguyên tố dinh dưỡng thiết yếu cho cây ngô thì đạm là nguyên tố quan trọng bậc nhất đối với ngô. Đạm làm cho lá thêm xanh, cây sinh trưởng mạnh. Vì vậy, người ta gọi đạm là: “động cơ sinh trưởng của ngô”. Đạm là yếu tố cấu thành nên tất cả các bộ phận sống, các chất nguyên sinh tế bào, là thành phần quan trọng của nhiễm sắc thể, gen, axit amin, prôtein, các phytohormon, phytocrom và vitamin... Thiếu đạm cây sinh trưởng kém, còi cọc, lá cây màu vàng, diện tích lá, trọng lượng hoa, quả, hạt đều giảm. Thiếu đạm có thể làm giảm năng suất đến 50%. Cây ngô cần đạm trong suốt quá trình sinh trưởng, thời kỳ nảy mầm cây ngô cần lượng đạm rất nhỏ nhưng rất quan trọng. Nhịp độ hút đạm lớn dần đến lúc trổ cờ, sự hút đạm của cây ngô kéo dài đến khi hạt chín. Vì vậy việc nghiên cứu để xác định lượng đạm bón phù hợp cho từng thời kỳ là hết sức cần thiết. 2.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam 2.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Do có nền di truyền rộng và thích ứng với nhiều vùng sinh thái khác nhau nên cây ngô được trồng ở hầu hết các nước trên thế giới. Hiện nay có khoảng 140 nước trồng ngô, trong đó có 38 nước là các nước phát triển còn lại là các nước đang phát triển. Tổng diện tích trồng năm 20010 lên đến 162,3 triệu ha, năng suất 5,06 tấn/ha và sản lượng 820,6 triệu tấn một năm (FAOSTAT, 2011) [33]. Ngô được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực như: làm lương thực, thực phẩm, thức ăn cho gia súc, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến...Hiện nay ngô là nguồn nguyên liệu quan trọng trong sản xuất năng lượng sinh học (ethanol), đây được coi là giải pháp cho sự thiếu hụt năng lượng trong tương lai. Ở Mỹ, trên 90% ethanol được sản xuất từ ngô với hơn 2680 nhà máy. Trung Quốc cũng đang tập trung đầu tư xây dựng nhiều cở sở nghiên cứu về nguồn năng lượng sinh học này với mục tiêu ethanol nhiên liệu sẽ tăng lên 2 tỷ lít vào năm 2010 và 10 tỷ lít vào năm 2020 (Ngô Sơn, 2007) [16]. Để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất ethanol, các nhà khoa học thuộc Đại học bang Michigan (Mỹ) đã tạo ra một số giống ngô mới chuyên sản xuất ethanol. Giống ngô mới này cho phép tạo ra sản phẩm ethanol hiệu quả hơn và mang lại nhiều lợi nhuận hơn bởi hiện phần lớn nhiên liệu ethanol của Mỹ được sản xuất từ bắp ngô. Nhờ những tiến bộ trong nghiên cứu và sản xuất mà diện tích, năng suất và sản lượng ngô trên thế giới tăng lên liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Kết quả được thể hiện qua bảng 1.1. Bảng 2.1. Tình hình sản xuất ngô thế giới từ năm 1961 - 2010 Chỉ tiêu Năm Diện tích (triệu ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (triệu tấn) 1961 105,55 1,92 205,03 2005 147,47 4,84 713,43 2006 148,83 4,75 706,69 2007 159,05 4,96 789,48 2008 161,10 5,13 826,22 2009 159,53 5,12 817,11 2010 162,3 5,06 820,6 (Nguồn: FAOSTAT, 2011) [33] Qua bảng 1.1 cho thấy, sản xuất ngô trên thế giới tăng lên không ngừng cả về diện tích và năng suất. Năm 1961 năng suất ngô trung bình thế giới mới chỉ đạt 1,92 tấn/ha, diện tích 105,55 triệu ha. Nhưng đến năm 2010 năng suất ngô đạt 5,06 tấn/ha, gấp 2,6 lần và sản lượng đạt 820,6 triệu tấn, gấp 4 lần so vớinăm 1961, trong khi diện tích ngô tăng không nhiều (1,5 lần). Trong công tác cải tạo giống cây trồng trên cơ sở ưu thế lai, ngô lai là một thành công kỳ diệu của nhân loại. Nhờ sử dụng giống ngô lai và kỹ thuật trồng trọt tiên tiến mà năng suất ngô trên thế giới đã tăng 4 lần trong vòng 50 năm (1960-2010), nhất là các nước có điều kiện thâm canh như Mỹ, Trung Quốc, Brazil. Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới được trình bày ở bảng 1.2. Bảng 2.2. Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2010 Nước Diện tích (triệu ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng ( triệu tấn) Mỹ 32,96 9,59 9,59 Trung Quốc 32,52 5,46 5,46 Brazil 12,81 4,37 4,37 Mexico 7,15 3,26 3,26 Ấn Độ 7,18 1,96 1,96 Indonexia 4,14 4,43 4,43 Đức 0,46 8,79 8,79 Hy Lạp 0,19 11,7 11,7 Israel 0,003 28,39 28,39 (Nguồn FAOSTAT, 2011) [33] Mỹ là một nước phát triển có năng suất ngô tăng từ 2-3 lần trong thời kỳ trên. Hiện nay Mỹ là nước sản xuất ngô lớn nhất thế giới, chiếm hơn 40% tổng sản lượng ngô thế giới. Theo Rinke.E (1979) [39] việc sử dụng các giống ngô lai ở Mỹ bắt đầu từ năm 1930. Hiện nay 100% diện tích ngô của Mỹ là trồng các giống ngô lai trong đó hơn 90% là giống ngô lai đơn (Ngô Hữu Tình và cộng sự, 2009) [20]. Nhiều thí nghiệm ở Mỹ về các giống ngô lai đơn đã cho năng suất đạt 25 tấn/ha/vụ. Người ta đã tính được mức độ tăng năng suất ngô ở Mỹ trong giai đoạn 1930-1986 là 103 kg/ha/năm, trong đó sự đóng góp do cải tiến nền di truyền là 63 kg/ha/năm (Duvick D.N, 1990) [31], vào cuối thế kỷ 19, Mỹ đã có 770 giống ngô cải lượng. Trong thời gian gần đây, nếu như phần lớn các nước phát triển năng suất ngô tăng không đáng kể, thì năng suất ngô ở Mỹ lại có sự tăng đột biến. Kết quả đó có được là nhờ ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất. Theo Ming Tang Chang và cộng sự (Minh-Tang Chang et al, 2005) [35] cho biết: Ở Mỹ chỉ còn 48% giống ngô được sử dụng được chọn tạo theo công nghệ truyền thống, 52% là bằng công nghệ sinh học. Năng suất ngô ở Mỹ đã tăng từ 1,5 tấn/ha vào năm 1930 đến 7 tấn/ha vào những năm 1990 (SK.Vasal et al, 1990) [40]. Năm 2009 tổng sản lượng ngô của Mỹ là 307,38 triệu tấn/ha, trên diện tích là 31,83triệu ha. Trung Quốc là nước đứng thứ 2 trên thế giới về diện tích trồng ngô, Theo dự báo, sản lượng ngô năm 2010-2011 của Trung Quốc sẽ tăng 7,1% so với năm 2009, và vượt kỷ lục 163,12 triệu tấn năm 2009, tuy nhiên diện tích ngô tăng không nhiều (tăng 1%). Do có trình độ khoa học kỹ thuật và thâm canh cao nên Israel là nước đứng đầu về năng suất là Israel với 16,23 tấn/ha, năng suất ngô thấp nhất là Ấn Độ (2,06 tấn/ha). Trong sản xuất hiện nay có sự khác biệt rõ ràng về năng suất giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Năng suất ngô trung bình của các nước phát triển là 7,8 tấn/ha, các nước đang phát triển là 2,7 tấn/ha. Hai nguyên nhân chính dẫn đến sự chênh lệch này là: - Tỷ lệ sử dụng giống ngô lai khác nhau trong sản xuất. Ở các nước phát triển 90-100% diện tích ngô được trồng bằng các giống lai có ưu thế lai cao, trong khi đó các nước đang phát triển diện tích trồng giống ngô lai rất thấp (37% diện tích) chủ yếu là trồng các giống thụ phấn tự do (63% diện tích) (CIMMYT, 1991-1992) [29]. - Khả năng đầu tư và trình độ thâm canh của người sản xuất. Theo dự báo của Viện nghiên cứu chương trình Lương thực Thế giới (IPRI, 2003) [34], vào năm 2020 tổng nhu cầu ngô thế giới là 852 triệu tấn, trong đó 15% dùng làm lương thực, 69% dùng làm thức ăn chăn nuôi, 16% dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp. Ở các nước phát triển chỉ dùng 5% ngô làm lương thực nhưng ở các nước đang phát triển tỷ lệ này là 22%, dự báo nhu cầu ngô trên thế giới năm 2020 được trình bày ở bảng 1.3 Bảng 2.3: Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020 Vùng Năm 1997 (triệu tấn) Năm 2020 (triệu tấn) % thay đổi Thế giới 586 852 45 Các nước đang phát triển 295 508 72 Đông Á 136 252 85 Nam Á 14 19 36 Cận Sahara - Châu Phi 29 52 79 Mỹ Latinh 75 118 57 Tây và Bắc Phi 18 28 56 (Nguồn: IPRI 2003) [34] Như vậy, đến năm 2020 nhu cầu ngô thế giới tăng 45% so với nhu cầunăm 1997, chủ yếu tăng cao ở các nước đang phát triển (72%), riêng Đông Á nhu cầu tăng 85% so với năm 1997. 2.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam Cây ngô được đưa vào Việt Nam cách đây khoảng 300 năm (Ngô Hữu Tình, 1997) [18]. Ngô là một trong những cây màu chính, thích ứng rộng, chịu thâm canh, năng suất cao, vì vậy cây ngô được trồng ở hầu hết các vùng trong cả nước. Tình hình sản xuất ngô lai trong nước giai đoạn từ năm 1961 đến 2010 được trình bày qua bảng 1.4. Bảng 2.4. Sản xuất ngô Việt Namnăm 1961 – 2010 Năm Diện tích (nghìn ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (nghìn tấn) 1961 229,2 1,14 260,1 1975 229,2 1,05 280,6 1990 432,0 1,55 671,0 1994 534,6 2,14 1.143,9 2000 730,2 2,51 2.005,9 2005 1.052,6 3,60 3.787,1 2007 1.072,8 3,96 4.250,9 2008 1.140,2 4,01 4.573,1 2009 1.086,8 4,03 4.381,8 2010 1.126,9 4,09 4.606,8 (Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ NN & PTNT 2011) [21] Sản xuất ngô ở Việt Nam trải qua nhiều bước thăng trầm, đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn, được chia làm 3 giai đoạn chính: Giai đoạn 1: Trước năm 1975 do điều kiện còn khó khăn nên cây ngô chưa được chú trọng, vì vậy diện tích ngô chỉ đạt 209 ngìn ha, năng suất 1,07 tấn/ha, với sản lượng bình quân 224 nghìn tấn/năm. Giai đoạn 2: Từ năm 1975-1994 diện tích trồng ngô tăng chậm từ 229,2 nghìn ha (năm 1975) lên 534,6 nghìn ha (năm 1992). Đầu những năm 1990 ngành sản xuất ngô Việt Nam thực sự có một bước tiến nhảy vọt, gắn liền với việc sử dụng giống ngô lai ra sản xuất, đây là bước chuyển tiếp quan trọng trong chương trình phát triển ngô lai ở Việt Nam - từ giống thụ phấn tự do sang giống ngô lai quy ước. Hàng loạt các giống ngô lai Việt Nam đã được mở rộng ra sản xuất: LVN10, LVN4, LVN5, LVN9, LVN12, LVN17... Do được chọn tạo trong nước nên các giống ngô được tạo ra có khả năng thích ứng với điều kiện sinh thái và tập quán canh tác của người dân, giá thành giống chỉ bằng 50-70% so với các giống nước ngoài cùng loại. Giai đoạn 3: Từ năm 1994 đến nay, diện tích trồng ngô tăng nhanh, đồng thời với việc tăng không ngừng về năng suất. Năm 2010 năng suất và sản lượng ngô cao nhất từ trước đến nay, năng suất đạt 4,09 tấn/ha, sản lượng 4.606,8 nghìn tấn trên diện tích 1.126,9 nghìn ha. So với năm 1990, khi chưa sử dụng giống ngô lai trong sản xuất thì diện tích tăngtrên 2,6 lần, còn sản lượng tăng trên 6,9 lần. Có thể nói việc phát triển và sử dụng các giống ngô lai trong sản xuất ở Việt Nam là thành tựu nổi bật không thể phủ nhận. Trước đây năng suất ngô của nước ta rất thấp so với năng suất ngô thế giới, do sử dụng giống địa phương và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Tuy nhiên chỉ trong 10 năm áp dụng sản xuất ngô lai tại Việt Nam diện tích ngô lai đã tăng từ 0% năm 1990 lên 60% năm 2000 với tốc độ tăng kỷ lục 6%/năm, đến năm 2010 tỷ lệ giống ngô lai trong sản xuất là 95%. Thời gian gần đây, việc tiêu thụ ngô hàng hoá trong nước chủ yếu do các công ty chế biến thức ăn chăn nuôi, thông qua các đại lý hoặc các tư thương thu mua gom lại, sấy khô rồi cung ứng cho các nhà máy. Hiện nay, tại một số tỉnh như Sơn La, Hà Tây, Hòa Bình... đã hình thành các cụm sấy ngô hạt do các tư nhân tự đầu tư và thu mua ngô của dân, rồi cung cấp cho các cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi. * Cơ hội và thách thức đối với sản xuất ngô ở Việt Nam - Cơ hội trong sản xuất ngô ở Việt Nam + Sản xuất ngô trong nước đã nhận được sự quan tâm sâu sắc của các cơ quan hữu quan. + Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của nước ta thuận lợi cho phép chúng ta có thể mở rộng diện tích gieo trồng. Đặc biệt từ năm 1993 trở lại đây, cây ngô được phát triển mạnh ở vùng Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, đã và đang hình thành các vùng sản xuất ngô thương phẩm. Khả năng tăng diện tích gieo trồng ở nước ta còn lớn, hiện nay trong số 140 nghìn ha diện tích đất 1 vụ ở miền núi mới chỉ khai thác được khoảng 15 - 20% để trồng ngô, đậu, lạc. Trong 180 nghìn ha ngô ở các tỉnh miền núi và cao nguyên thì mới có khoảng 37% diện tích ngô được trồng 2 vụ. Diện tích ngô vụ đông trên đất 2 vụ lúa ở Đồng bằng và Trung du phía Bắc có thể trồng ngô lên tới 300 nghìn ha. + Nước ta đã có nhiều thành công trong việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về công nghệ sản xuất các loại hạt giống lai và các giống thụ phấn tự do, nhiều giống ngô lai có năng suất cao đã và đang được áp dụng phổ biến trong sản xuất. Chương trình phát triển ngô lai của Việt Nam từ năm 1991 tới nay phát triển nhanh, có tới gần 60% diện tích ngô lai được trồng bằng các giống trong nước, số còn lại là các giống của một số công ty nước ngoài. + Thu hồi vốn nhanh: Trồng ngô, nhất là ngô lai có thời gian gieo trồng ngắn, vốn đầu tư không nhiều, dễ làm nên mang lại hiệu quả kinh tế cao. + Công tác khuyến nông và hệ thống thông tin phát triển đã giúp cho người dân tiếp thu nhanh về giống mới và kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất ngô đại trà. + Phần lớn các tỉnh đều có chính sách trợ giá về giống và bảo hiểm giá ngô thương phẩm cho người sản xuất ngô lai. + Hiện nay nhu cầu về ngô sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước lớn hơn khả năng cung cấp nên ít khi có tình trạng dư thừa. - Thách thức trong sản xuất ngô ở Việt Nam Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng sản xuất ngô nước ta vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra: + Năng suất có sự tăng trưởng đáng kể nhưng so với thế giới năng suất ngô của Việt Nam vẫn còn thấp, năm 2010 năng suất ngô trong nước bằng 80% so với trung bình thế giới, 42,65% so với năng suất trung bình của Mỹ (FAOSTAT, 2011) [33]. + Giá thành ngô cao, do giá giống và vật tư cao. Trừ 3 vùng ngô hàng hóa lớn là Sơn La, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có giá thành ngô tương đối thấp, các vùng còn lại có giá thành tương đối cao. Điều đó làm cho giá ngô trong nước luôn cao hơn so với giá ngô thế giới từ 30-40%. + Mặc dù sản xuất ngô trong nước phát triển mạnh song do nhu cầu nguyên liệu để chế biến thức ăn gia súc ngày càng tăng nên hàng năm nước ta vẫn phải nhập một khối lượng đáng kể ngô làm nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thức ăn gia súc. Trong những năm gần đây nước ta phải nhập 500-700 nghìn tấn ngô hạt để làm thức ăn chăn nuôi. + Sản phẩm từ ngô còn đơn điệu. + Công nghệ sau thu hoạch chưa được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên nếu nhập thiết bị phục vụ cho công tác này thì ít nhất cũng cần có hàng chục triệu USD. + Năng suất và hiệu quả kinh tế trong sản xuất ngô còn có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng. + Bộ giống ngắn ngày, chịu hạn, ít sâu bệnh, năng suất cao chất lượng tốt vẫn còn thiếu, đặc biệt là ở các tỉnh phía Nam. + Ngô ở Việt Nam chưa chuyển sang sản xuất hàng hóa, 75% sản luợng ngô được dùng để sản xuất thức ăn gia súc. Với việc tăng đầu gia súc thì nhu cầu về ngô có thể vượt quá khả năng cung ứng. Nhu cầu đối với giống ngô ngọt, ngô nếp và ngô rau tăng nhưng hiện nay chỉ có 10% diện tích trồng những giống ngô này. + Một số biện pháp kỹ thuật canh tác vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Quy trình canh tác giống mới vẫn còn chưa cụ thể cho từng giống, từng vùn
Luận văn liên quan