Đồ án Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam

Thực tiễn tại Việt Nam - Tai nạn giao thông là một loại “thảm họa” do con người gây ra (Man-made disaster). Thống kê của bệnh viện Việt Đức năm 2006 có 19.653 nạn nhân TNGT vào cấp cứu tại bệnh viện, trung bình mỗi ngày có 53 nạn nhân, cứ26 phút có một nạn nhân vào cấp cứu. Theo thống kê của bệnh viện ChợRẫy từ1/1/2003 đến 31/12/2007 (5 năm) có tổng cộng 139.011 nạn nhân TNGT vào cấp cứu (7.959 người chết do TNGT tại bệnh viện); trung bình mỗi năm có 27.802 nạn nhân, mỗi ngày có 76 nạn nhân; cứ19 phút lại có một nạn nhân bịTNGT vào bệnh viện. Nhưvậy là nếu chỉtính sốnạn nhân TNGT vào cấp cứu tại hai bệnh viện trung ương tại Hà Nội và thành phốHồChí Minh cảnăm 2006 đã có 47.455 gấp 4,2 lần sốbịthương của cảnước được công bốchính thức là 11.286 người. Điều cần lưu ý là hầu hết sốnạn nhân vào cấp cứu tại hai bệnh viện trung ương nói trên đều là những tai nạn nặng do các địa phương chuyển về, hầu nhưkhông có các vụva chạm nhẹ. - Sốliệu cập nhật TNGT 10 ngày giữa tháng 1 năm 2008 tại bệnh viện Việt Đức (Hà nội) và ChợRẫy (thành phốHCM) trung bình mỗi ngày tại hai bệnh viện này đã có 121 nạn nhân TNGT vào cấp cứu (vượt xa sốtrung bình bị thương do TNGT mỗi ngày năm 2007 vừa công bốlà 29 người/ngày (10.546/365 ngày) - BộY tếthống kê 650 bệnh viện trên cảnước năm 2006 có 140.447 nạn nhân TNGT vào cấp cứu (sốcông bốchính thức trên báo chí là 11.288). Trung bình mỗi ngày cảnước có 384 nạn nhân TNGT, cứ4 phút lại có một nạn nhân TNGT vào cấp cứu. Con sốnày vượt xa sốvào cấp cứu và chết do các bệnh truyền nhiễm và thiên tai, thảm họa khác trên cảnước. BộY tế đã thu thập sốliệu trong sổtửvong (sổA6) tại 9.483 xã trên cảnước thấy nguyên nhân chết do TNGT là 17.829 người 1 (cao hơn con sốcông bốchính thức năm 2006 là 12.757 người chết do TNGT).

pdf30 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 12132 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam Báo cáo giữa kỳ (Bản thảo) Email: atgt2020@gmail.com III-8-1 8. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CẤP CỨU Y TẾ 8.1 Các vấn đề tồn tại và dự báo đến 2020.................................................................... 2 8.2 Mục tiêu: ................................................................................................................... 7 8.3 Chiến lược: ............................................................................................................... 8 8.4 Lộ trình thực hiện chiến lược.................................................................................. 23 8.5 Đề xuất một số dự án cần được quốc tế tài trợ về cấp cứu y tế ............................ 27 Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam Báo cáo giữa kỳ (Bản thảo) Email: atgt2020@gmail.com III-8-1 8. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CẤP CỨU Y TẾ Chiến lược được soạn thảo với các đề mục chính như sau: 1. Các vấn đề tồn tại về tai nạn giao thông như: định nghĩa về TNGT, số chết và bị thương do TNGT tại Việt Nam theo thống kê của Bộ Y tế, thiệt hại về kinh tế xã hội do TNGT gây ra, một số thông tin về tình hình TNGT tại các nước trên thế giới, các bài học kinh nghiệm tại Nhật Bản… 2. Dự báo tình hình TNGT các năm tới, các yếu tố gây tăng TNGT, làm giảm TNGT, dự báo tình hình cấp cứu y tế các năm tới trong đó tập trung vào các yếu tố chủ yếu: (1) Công tác chăm sóc y tế trước khi được chuyển tới bệnh viện (2) Chăm sóc, điều trị tại bệnh viện (3) Đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống cấp cứu nạn nhân TNGT (4) Công tác thông tin truyền thông cho cộng đồng về cấp cứu nạn nhân (5) Các vấn đề về cấp cứu nạn nhân TNGT nhiều nạn nhân và (6) Hệ thống bảo hiểm liên quan đến cấp cứu nạn nhân TNGT 3. Mục tiêu: Trong đó có: (1) Mục tiêu tổng quát (2) Mục tiêu cụ thể 4. Chiến lược phát triển hệ thống cấp cứu TNGT đến năm 2020 tập trung vào: (1) Các cơ sở pháp lý: Điểm lại các văn bản pháp qui hiện có của Chính phủ, của Ủy Ban ATGT quốc gia, Bộ Giao thông, Bộ Y tế… để thấy được tính khả thi của các đề xuất nêu ra (2) Phát triển công tác cấp cứu ban đầu bao gồm: o Tăng cường hệ thống thông tin cấp cứu y tế o Tăng cường công tác cấp cứu ban đầu và vận chuyển cấp cứu o Phát triển hệ thống cấp cứu 115 (3) Đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống cấp cứu (4) Tổ chức cấp cứu thảm họa và TNGT nhiều nạn nhân một lúc (5) Phát triển hệ thống bảo hiểm nạn nhân TNGT 5. Lộ trình thực hiện chiến lược: Được chia thành các giai đoạn: từ 2008 đến 2010; từ 2011 đến 2012; từ 2013 đến 2015 và từ 2016 đến 2020. Việc chia giai đoạn này phù hợp với cách chia giai đoạn của kế hoạch tổng thể về ATGT đến năm 2020. Trong mỗi giai đoạn đều chia ra mục tiêu và các hoạt động chủ yếu 6. Đề xuất một số dự án cần được tài trợ quốc tế liên quan đến chiến lược: (1) Các đề án hiện đã và đang được tài trợ quốc tế cần tiếp tục (2) Dự án đề xuất được JICA tài trợ Sau đây là nội dung chi tiết của Chiến lược cấp cứu y tế Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam Báo cáo giữa kỳ (Bản thảo) Email: atgt2020@gmail.com III-8-2 8.1 Các vấn đề tồn tại và dự báo đến 2020 1) Tai nạn giao thông (1) Thực trạng thống kê TNGT quốc gia hiện nay: - Quyết định số 197/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/12/2001 phê duyệt Chính sách quốc gia Phòng chống tai nạn thương tích giai đoạn 2002-2010 đã nêu là “Các cơ sở y tế, nhất là ở tuyến quận huyện, xã phường cần đánh giá đúng và chính xác về số lượng những tai nạn, thương tích, mức độ tai nạn, thương tích thường xảy ra trên địa phương”. Thực tế hiện nay, số tai nạn giao thông cũng như số nạn nhân, số chết, số bị thương do TNGT của nước ta không phản ánh đúng thực tế tình hình và không tương quan với thống kê của các nước trong khu vực và trên thế giới. - Định nghĩa Tai nạn giao thông của Liên Hợp quốc (UN) như sau: “Những tai nạn xẩy ra trên đường hoặc phố dành cho giao thông công cộng mà nó dẫn đến một hoặc nhiều người chết hoặc bị thương và trong đó có ít nhất một phương tiện đang di chuyển có liên quan. Vì vậy những tai nạn này bao gồm sự va chạm giữa các phương tiện với nhau, giữa phương tiện với người đi bộ, giữa phương tiện với súc vật hoặc các vật cố định. Tai nạn chỉ có một phương tiện liên quan (không có người sử dụng đường khác) cũng được tính” - Cách tính và báo cáo tình hình tai nạn giao thông của nước ta hiện nay còn nhiều bất cập: Hầu như chỉ tính số TNGT có người chết (tỷ lệ 89,92%); không tính các trường hợp tự gây ra tai nạn giao thông, tai nạn giao thông do chất lượng phương tiện (như xe mất phanh đâm xuống vực) mặc dù các trường hợp này gây chết người, thậm chí làm chết nhiều người nhưng vẫn không được tính là TNGT. Các trường hợp TNGT trên các tuyến đường nông thôn (liên huyện, liên xã) thường không được cảnh sát lập biên bản nên cũng không được tính. Vì vậy con số thực về TNGT cũng như số nạn nhân TNGT được thống kê báo cáo chỉ khỏang 10% so với thực tế. Số chết cũng chỉ bằng 70% số thực tế năm 2006 so với kết quả điều tra nguyên nhân chết tại 9.483 xã năm 2006 của Bộ Y tế. - Tỷ lệ số chết so với số TNGT của Thái Lan là 16,26%, của Malaysia là 2,41%, của Nhật là 0,72% là phù hợp với thực tiễn vì số TNGT bao giờ cũng lớn hơn nhiều lần số chết do TNGT. Trong khi số liệu này của Việt Nam là 89,92% có nghĩa là Việt Nam chỉ thống kê những trường hợp TNGT có người chết (gần 90%) chứ không phải là thống kê toàn bộ số TNGT. Tại các nước thì số bị thương do TNGT bao giờ cũng nhiều hơn số chết do TNGT như: Thái Lan: 4,43 lần, Malaysia: 7,29 lần, Nhật: 123 lần trong khi ở Việt Nam thì hai số này gần tương đương nhau: 1,24 lần. Điều đó nói lên tính chất không thực tế của các số liệu thống kê hiện nay. Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam Báo cáo giữa kỳ (Bản thảo) Email: atgt2020@gmail.com III-8-3 (2) Số bị thương và chết do TNGT a) Thực tiễn tại Việt Nam - Tai nạn giao thông là một loại “thảm họa” do con người gây ra (Man-made disaster). Thống kê của bệnh viện Việt Đức năm 2006 có 19.653 nạn nhân TNGT vào cấp cứu tại bệnh viện, trung bình mỗi ngày có 53 nạn nhân, cứ 26 phút có một nạn nhân vào cấp cứu. Theo thống kê của bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/1/2003 đến 31/12/2007 (5 năm) có tổng cộng 139.011 nạn nhân TNGT vào cấp cứu (7.959 người chết do TNGT tại bệnh viện); trung bình mỗi năm có 27.802 nạn nhân, mỗi ngày có 76 nạn nhân; cứ 19 phút lại có một nạn nhân bị TNGT vào bệnh viện. Như vậy là nếu chỉ tính số nạn nhân TNGT vào cấp cứu tại hai bệnh viện trung ương tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cả năm 2006 đã có 47.455 gấp 4,2 lần số bị thương của cả nước được công bố chính thức là 11.286 người. Điều cần lưu ý là hầu hết số nạn nhân vào cấp cứu tại hai bệnh viện trung ương nói trên đều là những tai nạn nặng do các địa phương chuyển về, hầu như không có các vụ va chạm nhẹ. - Số liệu cập nhật TNGT 10 ngày giữa tháng 1 năm 2008 tại bệnh viện Việt Đức (Hà nội) và Chợ Rẫy (thành phố HCM) trung bình mỗi ngày tại hai bệnh viện này đã có 121 nạn nhân TNGT vào cấp cứu (vượt xa số trung bình bị thương do TNGT mỗi ngày năm 2007 vừa công bố là 29 người/ngày (10.546/365 ngày) - Bộ Y tế thống kê 650 bệnh viện trên cả nước năm 2006 có 140.447 nạn nhân TNGT vào cấp cứu (số công bố chính thức trên báo chí là 11.288). Trung bình mỗi ngày cả nước có 384 nạn nhân TNGT, cứ 4 phút lại có một nạn nhân TNGT vào cấp cứu. Con số này vượt xa số vào cấp cứu và chết do các bệnh truyền nhiễm và thiên tai, thảm họa khác trên cả nước. Bộ Y tế đã thu thập số liệu trong sổ tử vong (sổ A6) tại 9.483 xã trên cả nước thấy nguyên nhân chết do TNGT là 17.829 người1 (cao hơn con số công bố chính thức năm 2006 là 12.757 người chết do TNGT). Dưới đây là thông tin chi tiết về số nạn nhân TNGT đến cấp cứu tại bệnh viện Việt Đức (Hà Nội) trong thời gian Tết tại Việt Nam (từ 06 đến 12/2/2008) trong đó có tới 526 nạn nhân. Số liệu thống kê này đã phân biệt số nạn nhân vào cấp cứu do TNGT với các loại tai nạn, thương tích khác như tai nạn sinh hoạt, tai nạn lao động. Số chết do TNGT ghi nhận tại bệnh viện chỉ có 1 trường hợp, tuy nhiên có tới 33 trường hợp nạn nhân quá nặng không có khả năng chữa trị được đã xin về chết tại nhà. Trong khi đó báo cáo chính thức cả nước được công bố chỉ có 336 người bị thương do TNGT là không thực tế. Bộ Y tế khẳng định là không có ghi chép trùng lắp TNGT với các loại tai nạn khác trong báo cáo này. 1 Nguồn: Niên giám thống kê y tế năm 2006 – Bộ Y tế Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam Báo cáo giữa kỳ (Bản thảo) Email: atgt2020@gmail.com III-8-4 Thống kê số nạn nhân vào cấp cứu tại BV Việt Đức Hà Nội trong dịp Tết2 (Từ 8h00 ngày 6/2/2008 đến 8h00 ngày 12/2/2008') TT SỐ TAI NẠN VÀO CẤP CỨU Tết 2007 Tết 2008 % Tổng số cấp cứu tai nạn của bệnh viện - Tai nạn giao thông 578 526 91% - Tai nạn sinh hoạt và TN lao động 188 190 101% 1 - Tai nạn do pháo nổ 1 4 400% Số chết tại bệnh viện Chết do tai nạn giao thông 8 1 12,5% Chết do tai nạn sinh hoạt và TN lao động 1 4 400% 2 Chết do tai nạn pháo nổ 0 0 0 Quá nặng xin về chết tại nhà Do tai nạn giao thông 22 33 150% Do tai nạn sinh hoạt và TN lao động 6 7 116,6% 3 Do pháo nổ 0 0 0 - Đến năm 2020, tuy TNGT không còn là vấn đề bức xúc nhất của xã hội nữa nhưng vẫn là một trong 10 bệnh có số mắc và số chết cao nhất của Việt nam cùng với bệnh tim mạch và ung thư giống như mô hình bệnh tật của các nước công nghiệp phát triển. Nguyên nhân là do số phương tiện giao thông tiếp tục tăng nhanh cả tại thành thị cũng như nông thôn. Nếu Việt nam cố gắng kìm chế được tốc độ gia tăng tai nạn giao thông thành công như năm 2006 thì mỗi năm vẫn có khoảng 170.000 nạn nhân đến cấp cứu tại các cơ sở y tế. Thống kê năm 2006 của Bộ Y tế là 170.900 nạn nhân TNGT vào cấp cứu chiếm tỷ lệ 203,46/100.000 dân và số chết tại bệnh viện do nguyên nhân TNGT khoảng gần 1000 người, chiếm tỷ lệ 1,01/100.000 dân. b) Tình hình TNGT tại Nhật Bản - Các thống kê về tình hình tai nạn giao thông và số chết do TNGT của Nhật cho biết: Từ năm 1951 Đến năm 1970 TNGT tại Nhật gia tăng tương tự Việt Nam những năm trước 2002. Đến năm 1970 Chính phủ nhận ra tính nghiêm trọng của vấn đề này và thực hiện kiên quyết nhiều giải pháp an toàn giao thông. Từ năm 1970 đến 1978 đã giảm được cả số vụ TNGT và số chết do TNGT. Tuy nhiên từ 1981 số vụ TNGT lại tiếp tục tăng nhanh (do số phương tiện tham gia giao thông tăng). Tuy nhiên Nhật đã thành công khi giảm được số chết do TNGT xuống còn khoảng 50 % so với năm 1970. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta tính toán mục tiêu đến năm 2020. - Số thống kê mới nhất năm 2007 về TNGT tại Nhật như sau: o Số chết do TNGT trong vòng 24 giờ: 5.744 (-9.6% so với 2006) o Số chết do TNGT trong vòng 30 ngày: 6.639 (- 8.7% so với 2006) 2 (Nguồn: Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam Báo cáo giữa kỳ (Bản thảo) Email: atgt2020@gmail.com III-8-5 Sở dĩ giảm được số chết như vậy là do đã tăng cường công tác cấp cứu nạn nhân tại các cơ sở y tế, giảm say xỉn khi lái xe và giảm chạy xe quá tốc độ cho phép.3 TAI NẠN GIAO THÔNG TẠI NHẬT BẢN 1951 - 2004 Bắt đầu triên khai Chương trình An toàn giao thông 1970 Số vụ TNGT tiếp tục tăng Số trường hợp chết bắt đàu giảm mạnh Nguyên nhân của thành công đó là do Nhật đã thực hiện kiên quyết việc cưỡng chế an toàn giao thông, quy định bắt buộc phải thắt dây an tòan (đối với xe ô tô) và đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông (đối với xe mô tô). Hơn nữa, Nhật cũng đầu tư lớn vào việc bố trí hệ thống thông tin khi có TNGT, các trạm cấp cứu dọc đường giao thông và nâng cao năng lực cấp cứu nạn nhân của các bệnh viện. Đó chính là những bài học kinh ngjhiệm mà Việt Nam cần học trong hoạch định chiến lược. c) Các dự báo đến năm 2020 của nhóm nghiên cứu như sau: - Dự báo 1: Đến năm 2020, số phương tiện giao thông của nước ta sẽ là: 35,62 triệu phương tiện trong đó 2,62 triệu ô tô và 33 triệu mô tô4 - Dự báo 2: Đến năm 2020, số phương tiện giao thông của nước ta sẽ là 52,6 triệu phương tiện tham gia giao thông Với số lượng phương tiện tham gia giao thông tăng như vậy, việc kìm chế tốc độ gia tăng của tai nạn giao thông và làm giảm số chết do TNGT thực sự là một thách thức lớn đối với đất nước và đối với Ngành Y tế. 3 Nguồn: Thống kê của Cục Cảnh sát Nhật Bản do Mr. Kobayashi, chuyên gia của JICA cung cấp 4 Nguồn: trên cơ sở thông tin của Bộ Giao thông VN và kế hoạch phát triển công nghiệp mô tô xe máy Việt Nam 2006-2015 và tầm nhìn 2020 Hội thảo ngày 22-01-2008 tại Hà Nội. Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam Báo cáo giữa kỳ (Bản thảo) Email: atgt2020@gmail.com III-8-6 2) Tổn thất về kinh tế xã hội do TNGT đường bộ gây ra Năm 2004, ADB hỗ trợ kinh phí cho chương trình an toàn cho khu vực được thực hiện do một nhóm tác giả Việt Nam và quốc tế đã sử dụng phương pháp tính thiệt hại theo tổng thu nhập quốc dân để tính toán những tổn thất do TNGT gây ra. Theo báo cáo thì số thiệt hại về kinh tế do TNGT gây ra năm 2002, 2003 khoảng 885 triệu USD, chiếm 2,45% tổng thu nhập quốc dân thời gian đó. 3) Chăm sóc y tế trước khi đến bệnh viện (1) Công tác y tế và hệ thống thông tin cấp cứu: - Các thông tin về cấp cứu còn chậm, không đáp ứng được nhu cầu về “thời gian vàng” trong cấp cứu chấn thương - Cấp cứu tại hiện trường còn thấp, phần lớn do cộng đồng thực hiện. - Đánh giá kỹ thuật cấp cứu ban đầu cho thấy: 34,8% không được xử trí cấp cứu và 65,2% có được xử trí cấp cứu. Các xử trí thông thường chỉ đạt yêu cầu về chuyên môn dưới 50%. (2) Hệ thống vận chuyển cấp cứu nạn nhân - Nhiều nạn nhân không được vận chuyển đến bệnh viện bằng các xe cấp cứu chuyên dụng mà bằng các phương tiện khác như xe taxi, xe ôm hoặc thậm chí bằng cả xe tải do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do thiếu xe cấp cứu. 4) Chăm sóc y tế tại các bệnh viện - Ngành Y tế sẽ được đầu tư tốt hơn về trang thiết bị và nâng cấp về chuyên môn kỹ thuật, các Trung tâm y tế chuyên sâu được hình thành trên các vùng, miền sẽ tiếp nhận cấp cứu nạn nhân tốt hơn. Các bệnh viện tuyến huyện được nâng cấp có khả năng xử trí tại chỗ các trường hợp TNGT mà không phải chuyển lên tuyến trên. - Hệ thống bệnh viện tư nhân phát triển mạnh không chỉ tập trung tại các đô thị mà còn phát triển đến các huyện tại các địa bàn kinh tế trọng điểm. Các bệnh viện tư sẽ được trang bị hiện đại, có cán bộ chuyên môn chất lượng cao đóng vai trò tích cực trong việc cấp cứu, điều trị nạn nhân TNGT. 5) Đào tạo nguồn nhân lực cho cấp cứu nạn nhân TNGT - Nhu cầu đào tạo về cấp cứu hồi sức của các bệnh viện tuyến tỉnh và huyện rất lớn. Hiện nay hầu hết các Trường đại học Y chỉ đào tạo bác sỹ đa khoa. Trong vòng 5-10 năm tới sẽ tăng cường đào tạo chuyên khoa về hồi sức cấp cứu để bố trí công tác tại các Trung tâm 115, các bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến huyện. Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam Báo cáo giữa kỳ (Bản thảo) Email: atgt2020@gmail.com III-8-7 6) Truyền thông cho cộng đồng và học sinh các trường (1) Qua điều tra nghiên cứu tại các địa phương của Bộ Y tế cho thấy gần 70% nạn nhân nhận được cấp cứu ban đầu của cộng đồng, 15% của cán bộ y tế và 15% do các đối tượng khác. (2) Cần thiết phải có hướng dẫn, tập huấn cho cộng đồng về 5 kỹ thuật cấp cứu thông thường như cầm máu, băng vết thương, cố định gẫy xương, hồi sinh và vận chuyển nạn nhân. Năm kỹ thuật cấp cứu nói trên đã có thời gian được phổ cập sâu rộng trong nhân dân (trong thời kỳ chiến tranh tại miền Bắc) nhưng đến nay đã mai một đi, cần thiết được khôi phục lại trong tình hình thiên tai, thảm hoạ nói chung và tai nạn giao thông nói riêng đang ngày càng tăng như hiện nay. 7) Thảm họa và tai nạn gây chấn thương hàng loạt (1) Tai nạn giao thông đối với xe khách là phương tiện chở nhiều người nên hậu quả xẩy ra rất nghiêm trọng. Tuy nhiên hiện nay các khu vực thu dung phân loại, hồi sức cấp cứu, phòng mổ chỉ đủ khả năng cấp cứu cho khoảng 20 nạn nhân. Trường hợp nạn nhân đến cùng một lúc trên 50 người do tai nạn thì gây lúng túng trong tiếp nhận, phân loại, điều trị và làm rối loạn các hoạt động bình thường của các bệnh viện. (2) Các kiến thức cần thiết đối phó với tình huống tai nạn giao thông có nhiều nạn nhân nói chung còn yếu; phần lớn chưa được đào tạo bài bản, chỉ dựa vào kinh nghiệm hoặc hướng dẫn từ khi còn học đại học. Một số kiến thức còn yếu là: giải quyết nạn nhân tại hiện trường, phân loại nạn nhân, phân công người chỉ huy, phát ngôn với báo chí và bảo vệ bệnh viện để các thầy thuốc tập trung vào công tác cấp cứu nạn nhân. 8) Hệ thống bảo hiểm tai nạn thương tích - Hiện nay việc bắt buộc mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người tham gia giao thông chưa được thực hiện rộng rãi. Thời gian tới, Nhà nước sẽ thực hiện và kiểm tra việc mua loại hình bảo hiểm này. Khuyến khích các loại hình bảo hiểm tự nguyện khác như bảo hiểm tai nạn thương tích cho học sinh, sinh viên tại các trường học, bảo hiểm tai nạn cho công nhân… 8.2 Mục tiêu 1) Mục tiêu tổng quát: Đến năm 2020 sẽ đạt được: Giảm 50% số nạn nhân tai nạn giao thông chết tại các cơ sở y tế so với năm 2007 do được thông tin sớm, được cấp cứu và vận chuyển kịp thời bằng xe chuyên dụng đến các cơ sở y tế nhà nước, tư nhân và lực lượng vũ trang. Các bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố có đủ trang thiết bị cần thiết và cán bộ chuyên môn có trình độ cao; hình thành hệ thống đào tạo chuyên sâu về cấp cứu tai nạn thương tích và phục hồi chức năng cho nạn nhân sau khi được cấp cứu, điều trị tại các bệnh viện. Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam Báo cáo giữa kỳ (Bản thảo) Email: atgt2020@gmail.com III-8-8 2) Mục tiêu cụ thể a) Giảm số chết do TNGT tại các bệnh mỗi năm 5%, từng bước phấn đấu đến năm 2020 giảm số chết do TNGT tại các bệnh viện xuống còn 50% so với năm 2007 (dưới 0,6/100.000 dân). b) Tăng cường công tác cấp cứu trước khi đến bệnh viện: Thực hiện phương châm “4 tại chỗ” để cấp cứu nạn nhân ngay tại hiện trường, xử lý sớm và đúng phác đồ chuyên môn, nhân dân tham gia nhiều hơn và hiệu quả hơn trong cấp cứu ban đầu và vận chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế tại những nơi có nhiều khó khăn. Có nơi cấp cứu tại các điểm dừng dọc đường quốc lộ và tại các nhà ga đường sắt để cấp cứu hành khách và nạn nhân TNGT. c) Phát triển hệ thống cấp cứu 115: Hệ thống cấp cứu 115 bao phủ hết các tỉnh, thành phố trong cả nước nhờ kết hợp y tế công lập, tư nhân và lực lượng vũ trang. Các bệnh viện quận, huyện có đội cấp cứu ngoại viện được trang bị xe cấp cứu chuyên dụng đáp ứng nhu cầu cấp cứu bệnh nhân và nạn nhân TNGT. d) Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho cấp cứu y tế: Hệ thống đào tạo chuyên sâu về cấp cứu y tế được thiết lập tại các trường đào tạo cán bộ y tế để cập nhật kiến thức chuyên môn cho cán bộ y tế làm công tác cấp cứu nạn nhân TNGT, đào tạo cho cán bộ y tế cơ sở để tập huấn lại cho cộng đồng. e) Tăng cường năng lực cấp cứu TNGT có nhiều nạn nhân: 100% các bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố được nâng cấp trang thiết bị và cán bộ chuyên môn có đủ năng lực tiếp nhận các trường hợp tai nạn giao thông có từ 20 đến trên 50 nạn nhân; bệnh viện tuyến huyện đủ năng lực tiếp nhận các trường hợp tai nạn giao thông có dưới 20 nạn nhân. 8.3 Chiến lược 1) Cơ sở pháp lý (1) Nghị quyết 32 của Chính phủ “về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông” a. Mục d, phần 6 của Nghị quyết nêu rõ “Bộ Y tế ban hành quy định việc thành lập các trạm cấp cứu tai nạn giao thông trên các quốc lộ trọng điểm với khoảng các