Cùng với sự phát triển của thế giới và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, đất nước ta đang dần đổi mới và buớc vào thời kí công nghiệp , vừa xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật vừa phát triển nền kinh tế đất nuớc. Hiện nay nước ta đang xây dựng và phát triển các khu công nghiệp , khu đô thị , cao ốc Do đó, ngành công nghệ thông tin không thể nào thiếu và có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng như tiến trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới nói chung và các quốc gia trong tố chức WTO nói riêng đặt ra cho nền kinh tế và sản xuất của chúng ta cần phải đáp ứng được các yêu cầu chung của thế giới. Có thể nhận thấy một điều là nền sản xuất của chúng ta hiện tại mang tính thủ công và hết sức lạc hậu, do đó điều kiện cần và đủ để quá trình hội nhập thành công là phải hiện đại hóa nền kinh tế, hiện đại hóa và tự động quá trình sản xuất.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến những cuộc cách mạng về khoa học kĩ thuật và gần đây nhất là cuộc cách mạng về công nghệ thông tin. Với sự trợ giúp của máytính và hệ thống máy tính, con người đã nâng cao năng suất và tự động hóa ngày một hiệu quả hơn.
Nằm trong chương trình đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin của trường đại học công nghiệp hà nội . Với mục đích bổ sung kiến thức và kĩ năng nghề nghịệp làm tiền đề cho quá trình công tác sau này .
83 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2270 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tìm hiểu cấu trúc bảo trì máy tính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
---------²---------
BÁO CÁO ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
(HỆ TRUNG CẤP)
ĐỀ TÀI : TÌM HIỂU CẤU TRÚC BẢO TRÌ MÁY TÍNH
Giáo viên hướng dẫn : MAI THANH HỒNG
Nhóm sinh viên : TẠ DUY QUÂN
NGUYỄN TIẾN DŨNG
NGUYỄN CHÍ QUYẾT
Lớp : TIN1- K56
Niên khóa : 2009-2011
HÀ NỘI , NGÀY 29 THÁNG 7 NĂM 2011
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của thế giới và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, đất nước ta đang dần đổi mới và buớc vào thời kí công nghiệp , vừa xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật vừa phát triển nền kinh tế đất nuớc. Hiện nay nước ta đang xây dựng và phát triển các khu công nghiệp , khu đô thị , cao ốc … Do đó, ngành công nghệ thông tin không thể nào thiếu và có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng như tiến trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới nói chung và các quốc gia trong tố chức WTO nói riêng đặt ra cho nền kinh tế và sản xuất của chúng ta cần phải đáp ứng được các yêu cầu chung của thế giới. Có thể nhận thấy một điều là nền sản xuất của chúng ta hiện tại mang tính thủ công và hết sức lạc hậu, do đó điều kiện cần và đủ để quá trình hội nhập thành công là phải hiện đại hóa nền kinh tế, hiện đại hóa và tự động quá trình sản xuất.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến những cuộc cách mạng về khoa học kĩ thuật và gần đây nhất là cuộc cách mạng về công nghệ thông tin. Với sự trợ giúp của máytính và hệ thống máy tính, con người đã nâng cao năng suất và tự động hóa ngày một hiệu quả hơn.
Nằm trong chương trình đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin của trường đại học công nghiệp hà nội . Với mục đích bổ sung kiến thức và kĩ năng nghề nghịệp làm tiền đề cho quá trình công tác sau này .
Nhóm chúng em chọn đề tài: TÌM HIỂU CẤU TRÚC VÀ BẢO TRÌ MÁY TÍNH. Đề tài này nhằm trang bị cho em những nội dung như sau:
+ Lịch sử phát triển của máy tính , các thế hệ của máy tính , và cách phân loại máy tính ,các biến đổi cơ bản của hệ thống .
+ Giới thiệu các thành phần cơ bản của một hệ thống máy tính , khái niện về cấu trúc máy tính , mô tả kiến trúc máy tính , các kiểu cấu tạo .
+ Giới thiệu cấu trúc của bộ vi sử lý trung tâm, tổ trức chức năng và nguyên lý hoạt động của các bộ phận bên trong máy tính mô tả đặc điểm chi tiết các bộ phận trên máy tính , và một số kỹ thuật sử lý trong quá trình vận hành máy tính.
Cuối cùng nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn thầy cô đã tạo điều kiện và giúp đỡ chúng em trong thời gian vừa qua cùng toàn thể các thày cô giáo trong khoa công nghẹ thông tin,đã nhiệt tình giúp đỡ và cho chúng em nhiều kiến thức quý giá về những vấn đề mà chúng em đang tìm hiểu giúp chúng em hoàn thành đề tài thực tập một cách tốt nhất .
Tuy nhiên đề tài này vẫn còn nhiều thiếu sót mong các thầy, cô thông cảm và góp ý kiến cho chúng em.Chúng em xin chân thành cảm ơn!
* chúng em xin chân thành cám ơn thầy cô!
MỤC LỤC
PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ MÁY TÍNH:
CÁC THẾ HỆ MÁY TÍNH……………………………………..trang 6
PHÂN BIỆT MÁY TÍNH XÁCH TAY VÀ MÁY BÀN………trang 11
PHẦN CỨNG VÀ PHẦN MỀN………………………………..trang 11
PHẦN 2. NHỮNG THÀNH PHẦN CƠ BẢN TRONG MÁY TÍNH:
2.1. MAINBOARD………………………………………… ………….trang 14
2.2. CPU………………………………………………………………...trang 20
2.3. RAM…………………………………………………………….….trang 23
2.4. Ổ ĐĨA CỨNG ………………………………………….……….….trang 28
2.5. CD, CD-RW, DVD……………………………………………..….trang 38
2.6. FDD………………………………………………………………...trang 42
2.7. BÀN PHÍM , CHUỘT…………………………………………..….trang 43
2.8. MÀN HÌNH ………………………………………………………..trang 50
2.9. BỘ NGUỒN ……………………………………………………..…trang 58
2.10. VỎ MÁY ……………………………………………………….…trang 64
PHẦN 3. BẢO TRÌ , NÂNG CẤP MÁY TÍNH:
3.1. BẢO TRÌ MÁY TÍNH …………………………………………….trang 68
3.2. NÂNG CẤP MÁY TÍNH ……………………………………...…..trang 70
- NÂNG CẤP CPU………………………………………………… .trang 70
- NÂNG CẤP RAM …………………………………………………trang 71
- NÂNG CẤP ROM BOIS …………………………………………..trang 73
- NÂNG CẤP HDD………………………………………..…………trang 75
- NÂNG CẤP CD-ROM, CD-RW…………………………………...trang 76
- NÂNG CẤP HỆ ĐIỀU HÀNH……………………………………..trang 76
PHẦN 4. MỘT SỐ LỖI VÀ CÁCH KHẮC PHỤC:
4.1. LỖI MAINBOARD………………………………………………..trang 78
4.2. LỖI Ổ CỨNG ……………………………………………………..trang 79
4.3. LỖI RAM………………………………………………………….trang 79
4.4. LỖI CPU………………………………………………………… .trang 80
4.5. LỖI NGUỒN MÁY TÍNH ………………………………………..trang 81
4.6. LỖI MÀN HÌNH…………………………………….…………….trang 81
4.7. LỖI MÁY TÍNH NHẬN BIẾT QUA ÂM THANH……………....trang 82
PHẦN 1: TÌM HIỂU TỔNG QUAN VỀ MÁY TÍNH
1.1. CÁC THẾ HỆ CỦA MÁY TÍNH :
Trong quá trình phát triển của máy tính. Lịch sử phát triển máy tính thường được nhắc đến các thế hệ khác nhau của thiết bị máy tính. Một thế hệ dùng để chỉ tình trạng cải thiện trong quá trình phát triển sản phẩm. Thuật ngữ này cũng được sử dụng trong những tiến bộ khác nhau của công nghệ máy tính mới. Với mỗi thế hệ mới, các mạch đã nhận được nhỏ hơn và tiên tiến hơn so với thế hệ trước đó trước khi nó.Kết quả của thu nhỏ, tốc độ, sức mạnh, và bộ nhớ máy tính có tỷ lệ tăng lên. Phát hiện mới liên tục được phát triển có ảnh hưởng đến cách chúng ta sống, làm việc và vui chơi.
Mỗi thế hệ của các máy tính được đặc trưng bởi phát triển công nghệ chính mà về cơ bản thay đổi cách thức các máy tính hoạt động, kết quả là các thiết bị ngày càng nhỏ hơn, rẻ hơn, mạnh hơn và hiệu quả hơn và đáng tin cậy. Tìm hiểu về mỗi thế hệ và những phát triển dẫn đến các thiết bị hiện tại mà chúng ta sử dụng ngày nay.
1.1.1. Thế hệ máy tính thứ nhất (1945 - 1958) :
Điển hình của thế hệ này là 3 loại máy tính sau. Nó là nền tảng để phát triển máy tính sau này
Máy tính ENIAC (Electronic Numberical Integrator And Command) do John Mauchly và John Presper Eckert (đại học Pensylvania - Mỹ) thiết kế và chế tạo, là chiếc máy số hoá điện tử đa năng đầu tiên trên thế giới.
Nguồn gốc: Dự án chế tạo máy tinh ENIAC được bắt đầu vào năm 1943. Đây là 1 nỗ lực nhằm đáp ứng yêu cầu thời chiến của BRL (Ballistíc Research Laboratory - Phòng nghiên cứu đạn đạo quân đội Mỹ) trong việc tính toán chính xác và nhanh chóng các bảng số liệu đạn đạo cho từng loại vũ khí mới.
Số liệu kỹ thuật: ENIAC là 1 chiếc được thể hiện bằng 1 vòng gồm 10 đèn chân không, trong đó tại mỗi thời điểm chỉ có 1 đèn ở trạng thái bật để thể hiện 1 trong 10 chữ số từ 0-> 9 của hệ máy tính khổng lồ với 18.000 bóng đèn chân không, nặng hơn 30 tấn, tiêu thụ lượng điện năng khoảng 140Kw và chiếm 1 diện tích khoảng 1393 m2. Mặc dù vậy nó làm việc nhanh hơn nhiều so với cac loại máy tính điện cơ cùng thời với khả năng thực hiện 5000 fép tính cộng trong 1 giây đồng hồ.
Điểm khác biệt giữa ENIAC với các thế hệ máy tính khác là ENIAC sử dụng hệ đếm thập phân chứ không fải nhị phân. Với ENIAC, các con số được biểu diễn dưới dạng thập phân và việc tính toán cũng được thực hiện trên hệ thập phân. Bộ nhớ của máy bao gồm 20 bộ "tích luỹ", mỗi bộ có khả năng lưu jữ 1 số thập fân có 10 chữ số. Mỗi chữ số thập phân. Việc lập trình trên ENIAC là công việc vất vả vì fải thực hiện nối dây bằng tay thông qua việc đóng/mở các công tắc cũng như cắm vào hoặc rút ra các dây cáp điện.
Hoạt động thực tế: Máy chỉ thực sự hoạt động vào tháng 11/1945 với nhiệm vụ đầu tiên không fải là tính toán đạn đạo mà thực hiện các tính toán fức tạp dùng trong việc xác định tính khả thi của bom H. Việc có thể sử dụng máy vào mục đíck khác với mục đíck ban đầu cho ta thấy tính đa năng của ENIAC. Máy hoạt động dưới sự quản lý của BRL cho đến khi nó bị tháo rời vào năm 1955.
Với sự ra đời và thành công của ENIAC, năm 1946 được xem như năm mở đầu cho kỷ nguyên máy tính điện tử, kết thúc sự nỗ lực nghiên cứu của các nhà khoa học đã kéo dài trong nhiều năm liền trước đó.
1.1.2. Thế hệ máy tính thứ hai (1958 – 1964):
Sự thay đổi đầu tiên trong lĩnh vực máy tính điện tử xuất hiện khi có sự thay thế đèn chân không bằng đèn bán dẫn. Đèn bán dẫn nhỏ hơn, rẻ hơn, tỏa nhiệt ít hơn trong khi vẫn có thể được sử dụng theo cùng cách thức của đèn chân không để tạo nên máy tính. Không như đèn chân không vốn đòi hỏi phải có dây, có bảng kim loại, có bao thủy tinh và chân không, đèn bán dẫn là một thiết bị ở trạng thái rắn được chế tạo từ silicon có nhiều trong cát có trong tự nhiên.
Đèn bán dẫn là phát minh lớn của phòng thí nghiệm Bell Labs trong năm 1947. Nó đã tạo ra một cuộc cách mạng điện tử trong những năm 50 của thế kỷ 20. Dù vậy, mãi đến cuối những năm 50, các máy tính bán dẫn hóa hoàn toàn mới bắt đầu xuất hiện trên thị trường máy tính. Việc sử dụng đèn bán dẫn trong chế tạo máy tính đã xác định thế hệ máy tính thứ hai, với đại diện tiêu biểu là máy PDP-1 của công ty DEC (Digital Equipment Corporation) và IBM 7094 của IBM. DEC được thành lập vào năm 1957 và cũng trong năm đó cho ra đời sản phẩm đầu tiên của mình là máy PDP-1 như đã đề cập ở trên. Đây là chiếc máy mở đầu cho dòng máy tính mini của DEC, vốn rất phổ biến trong các máy tính thế hệ thứ ba.
Cấu hình với nhiều thiết bị ngoại vi của máy IBM 7094. Ở đây có nhiều điểm khác biệt so với máy IAS mà chúng ta cần lưu ý. Điểm quan trọng nhất trong số đó là việc sử dụng các kênh dữ liệu. Một kênh dữ liệu là một module nhập/xuất độc lập có bộ xử lý và tập lệnh riêng. Trên một hệ thống máy tính với các thiết bị như thế, CPU sẽ không thực thi các chỉ thị nhập/xuất chi tiết. Những chỉ thị đó được lưu trong bộ nhớ chính và được thực thi bởi một bộ xử lý chuyên dụng trong chính kênh dữ liệu. CPU chỉ khởi động một sự kiện truyền nhập/xuất bằng cách gửi tín hiệu điều khiển đến kênh dữ liệu, ra lệnh cho nó thực thi một dãy các chỉ thị trong máy tính.
Kênh dữ liệu thực hiện nhiệm vụ của nó độc lập với CPU và chỉ cần gửi tín hiệu báo cho CPU khi thao tác đã hoàn tất. Cách sắp xếp này làm giảm nhẹ công việc cho CPU rất nhiều.
Một đặc trưng khác nữa là bộ đa công, điểm kết thúc trung tâm cho các kênh dữ liệu, CPU và bộ nhớ. Bộ đa công lập lịch các truy cập đến bộ nhớ từ CPU và các kênh dữ liệu, cho phép những thiết bị này hoạt động độc lập với nhau.
1.1.3. Thế hệ máy tính thứ ba (1964 – 1974):
Một đèn bán dẫn tự chứa, đơn lẻ thường được gọi là một thành phần rời rạc. Trong suốt những năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ 20, các thiết bị điện tử phần lớn được kết hợp từ những thành phần rời rạc – đèn bán dẫn, điện trở, tụ điện, v.v... Các thành phần rời rạc được sản xuất riêng biệt, đóng gói trong các bộ chứa riêng, sau đó được dùng để nối lại với nhau trên những bảng mạch. Các bảng này lại được gắn vào trong máy tính, máy kiểm tra dao động, và các thiết bị điện tử khác nữa. Bất cứ khi nào một thiết bị điện tử cần đến một đèn bán dẫn, một ống kim loại nhỏ chứa một mẫu silicon sẽ phải được hàn vào một bảng mạch. Toàn bộ quá trình sản xuất, đi từ đèn bán dẫn đến bảng mạch, là một quá trình tốn kém và không hiệu quả.Những vấn đề như vậy đã làm nền tảng cho việc dẫn đến các bài toán mới trong công nghiệp máy tính. Các máy tính thế hệ thứ hai ban đầu chứa khoảng 10000 đèn bán dẫn. Con số này sau đó đã tăng lên nhanh chóng đến hàng trăm ngàn, làm cho việc sản xuất các máy mạnh hơn, mới hơn gặp rất nhiều khó khăn.
Sự phát minh ra mạch tích hợp vào năm 1958 đã cách mạng hóa điện tử và bắt đầu cho kỷ nguyên vi điện tử với nhiều thành tựu rực rỡ. Mạch tích hợp chính là yếu tố xác định thế hệ thứ ba của máy tính. Trong mục tiếp sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu một cách ngắn gọn về công nghệ mạch tích hợp. Sau đó, hai thành viên quan trọng nhất trong các máy tính thế hệ thứ ba, máy IBM System/360 và máy DEC PDP-8, sẽ được giới thiệu cùng với các tính năng nổi bật của chúng.
1.1.4. Thế hệ máy tính thứ 4 (1974 – HIỆN NAY):
Với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ, mức độ cho ra đời các sản phẩm mới ở mức cao, cũng như tầm quan trọng của phần mềm, của truyền thông và phần cứng, việc phân loại máy tính theo thế hệ trở nên kém rõ ràng và ít có ý nghĩa như trước đây. Trong phần tiếp theo, hai thành tựu tiêu biểu về công nghệ của máy tính thế hệ thứ tư sẽ được giới thiệu một cách tóm lược.
Bộ nhớ bán dẫn:
Vào khoảng những năm 50 đến 60 của thế kỷ này, hầu hết bộ nhớ máy tính đều được chế tạo từ những vòng nhỏ làm bằng vật liệu sắt từ, mỗi vòng có đường kính khoảng 1/16 inch. Các vòng này được treo trên các lưới ở trên những màn nhỏ bên trong máy tính. Khi được từ hóa theo một chiều, một vòng (gọi là một lõi) biểu thị giá trị 1, còn khi được từ hóa theo chiều ngược lại, lõi sẽ đại diện cho giá trị 0. Bộ nhớ lõi từ kiểu này làm việc khá nhanh. Nó chỉ cần một phần triệu giây để đọc một bit lưu trong bộ nhớ. Nhưng nó rất đắt tiền, cồng kềnh, và sử dụng cơ chế hoạt động loại trừ: một thao tác đơn giản như đọc một lõi sẽ xóa dữ liệu lưu trong lõi đó. Do vậy cần phải cài đặt các mạch phục hồi dữ liệu ngay khi nó được lấy ra ngoài.
Năm 1970, Fairchild chế tạo ra bộ nhớ bán dẫn có dung lượng tương đối đầu tiên. Chip này có kích thước bằng một lõi đơn, có thể lưu 256 bit nhớ, hoạt động không theo cơ chế loại trừ và nhanh hơn bộ nhớ lõi từ. Nó chỉ cần 70 phần tỉ giây để đọc ra một bit dữ liệu trong bộ nhớ. Tuy nhiên giá thành cho mỗi bit cao hơn so với lõi từ.
Kể từ năm 1970, bộ nhớ bán dẫn đã đi qua tám thế hệ: 1K, 4K, 16K, 64K, 256K, 1M, 4M, và giờ đây là 16M bit trên một chip đơn (1K = 210, 1M = 220). Mỗi thế hệ cung cấp khả năng lưu trữ nhiều gấp bốn lần so với thế hệ trước, cùng với sự giảm thiểu giá thành trên mỗi bit và thời gian truy cập.
Bộ vi xử lý:
Vào năm 1971, hãng Intel cho ra đời chip 4004, chip đầu tiên có chứa tất cả mọi thành phần của một CPU trên một chip đơn. Kỷ nguyên bộ vi xử lý đã được khai sinh từ đó. Chip 4004 có thể cộng hai số 4 bit và nhân bằng cách lập lại phép cộng. Theo tiêu chuẩn ngày nay, chip 4004 rõ ràng quá đơn giản, nhưng nó đã đánh dấu sự bắt đầu của một quá trình tiến hóa liên tục về dung lượng và sức mạnh của các bộ vi xử lý. Bước chuyển biến kế tiếp trong quá trình tiến hóa nói trên là sự giới thiệu chip Intel 8008 vào năm 1972.Đây là bộ vi xử lý 8 bit đầu tiên và có độ phức tạp gấp đôi chip 4004.
Đến năm 1974, Intel đưa ra chip 8080, bộ vi xử lý đa dụng đầu tiên được thiết kế để trở thành CPU của một máy vi tính đa dụng. So với chip 8008, chip 8080 nhanh hơn, có tập chỉ thị phong phú hơn và có khả năng định địa chỉ lớn hơn.
Cũng trong cùng thời gian đó, các bộ vi xử lý 16 bit đã bắt đầu được phát triển. Mặc dù vậy, mãi đến cuối những năm 70, các bộ vi xử lý 16 bit đa dụng mới xuất hiện trên thị trường. Sau đó đến năm 1981, cả Bell Lab và Hewlett-packard đều đã phát triển các bộ.
1.1.5. Thế hệ máy tính thứ 5( đang phát triển ):
Thứ năm thế hệ thiết bị máy tính, dựa trên trí thông minh nhân tạo, vẫn còn trong phát triển, mặc dù có một số ứng dụng, chẳng hạn như nhận dạng giọng nói, đang được sử dụng ngày nay.
1. 2. PHÂN BIỆT MÁY TÍNH XÁCH TAY VÀ MÁY TÍNH BÀN :
1.1.1. Máy tính xách tay là máy tính :
Là một máy tính cá nhân gọn nhỏ có thể mang xách được. Nó thường có trọng lượng nhẹ, tùy thuộc vào hãng sản xuất và kiểu máy dành cho các mục đích sử dụng khác nhau .Máy tính xách tay có đầy đủ các thành phần cơ bản của một máy tính cá nhân thông thường. máy tính xách tay : được tích hợp sẵn ,bàn phím , chuột , màn hình . Dung lượng pin với mục đích sử dụng nhiều khi di chuyển nên dung lượng pin là một yếu tố quan trọng để đánh giá về máy tính xách tay, dung lượng pin lớn cho phép thời gian làm việc dài hơn khi không sử dụng nguồn điện dân dụng. Trọng lượng máy tính để thuận tiện cho quá trình mang đi lại, trọng lượng càng thấp càng tốt.
1.1.2. Máy tính bàn là máy tính :
Máy tính để bàn thường được đặt trên bàn, do đó nó có tên để bàn. Loại máy tính này thường to nhất trong tất cả các PC. Mỗi bộ phận trong máy tính để bàn thường tách rời và có thể thay đổi được. Đặc biệt là bạn có thể gắn thêm các thiết bị ngoại vi vào máy tính để bàn.
1. 3. PHẦN CỨNG VÀ PHẦN MỀN :
Các chương trình viết bằng ngôn ngữ máy (cấp 1) được thực thi trực tiếp bằng các mạch điện tử của máy tính, không có trình thông dịch và biên dịch nào can thiệp vào. Các mạch điện tử cùng với bộ nhớ và các thành phần xuất / nhập tạo nên phần cứng máy tính. Phần cứng bao gồm các mạch tích hợp, các board mạch in, cable, nguồn cung cấp, bộ nhớ, thiết bị đầu cuối, …Thiết bị ngoại vi dùng để nhập hay xuất dữ liệu. Bàn phím, chuột, scanner, … thuộc thiết bị nhập, màn hình, máy in, … thuộc thiết bị xuất. Các ổ đĩa thuộc bộ nhớ ngoài cũng có thể coi vừa là thiết bị xuất vừa là thiết bị nhập. Các thiết bị ngoại vi liên hệ với CPU qua các mạch giao tiếp .
Phần mềm bao gồm các giải thuật và các biểu diễn của các giải thuật này gọi là chương trình. Nó chính là tập hợp các lệnh tạo thành một chương trình, chứ không phải là các phương tiện vật lý lưu trữ chúng.
Một dạng trung gian giữa phần mềm và phần cứng gọi là phần dẻo (firmware). Nó chính là thành phần bao gồm phần mềm được đặt vào bên trong các mạch điện tử trong quá trình sản xuất. Phần dẻo được dùng khi chương trình không thay đổi hay hiếm khi phải thay đổi như chương trình điều khiển đặt trong ROM BIOS.
Một thao tác bất kỳ thực thi bằng phần mềm có thể được gắn trực tiếp vào phần cứng và một lệnh bất kỳ thực thi bằng phần cứng cũng có thể được mô phỏng bằng phần mềm. Quyết định đặt một số chức năng vào phần mềm và các chức năng khác vào phần cứng dựa trên các yếu tố giá thành, tốc độ, độ tin cậy. Trên nhiều máy tính đầu tiên, phần cứng và phần mềm được phân biệt rõ ràng. Phần cứng thực hiện vài lệnh đơn giản nhưcộng và nhảy, các thủ tục khác phải do lập trình viên tự thiết kế. Sau đó, một số thao tác thường xuyên thực thi đòi hỏi các nhà thiết kế hướng đến yêu cầu xây dựng các mạch điện từ thực thi các thao tác này. Kết quả là hình thành xu hướng di chuyển các thao tác theo hướng từ cấp cao xuống cấp thấp hơn. Một số thao tác trước đây được lập trình ở cấp máy quy ước, sau đó được chuyển xuống thực thi ở phần cứng. Tuy nhiên, khi xuất hiện thế hệ máy tính dùng vi lập trình và thế hệ máy tính nhiều cấp, lại xuất hiện xu hướng ngược lại, nghĩa là di chuyển các thao tác từ cấp thấp lên cấp cao hơn. Ví dụ như lệnh cộng sẽ được thực hiện trực tiếp bằng phần cứng ở các máy trước kia. Đối với máy tính được vi lập trình hóa, lệnh cộng của cấp máy quy ước được thông dịch bằng một vi chương trình chạy trên cấp thấp nhất và được thực thi bằng một chuỗi các bước nhỏ: tìm lệnh, nạp lệnh, xác định lệnh, định vị dữ liệu, tìm và nạp dữ liệu từ bộnhớ, thực thi phép cộng và lưu trữ kết quả. Một số đặc trưng trước đây được lập trình ở cấp máy quy ước, sau đó được thực hiện bằng phần cứng hay vi chương trình:
- Các lệnh nhân, chia số nguyên.
- Các lệnh xử lý dấu chấm động.
- Các lệnh gọi thủ tục và quay về từ lệnh gọi thủ tục.
- Các lệnh đếm.
- Các lệnh quản lý chuỗi ký tự.
- Các đặc trưng làm tăng tốc độ tính toán chuỗi: định địa chỉ chỉ số và định địa
chỉ gián tiếp.
- Các đặc trưng cho phép chương trình di chuyển trong bộ nhớ sau khi đã thực
thi (cấp phát lại bộ nhớ).
- Các xung clock cho thủ tục định thời.
- Các ngắt báo hiệu cho máy tính.
- Khả năng chuyển đổi quá trình.
Như vậy, ta thấy ranh giới giữa phần cứng và phần mềm là không nhất định và thường xuyên thay đổi. Theo quan điểm của lập trình viên, cách thức thực thi một lệnh là không quan trọng, ngoại trừ tốc độ thực thi. Như vậy, phần cứng của người này có thể là phần mềm của người kia.Từ đó dẫn đến ý tưởng thiết kế máy tính có cấu trúc (structured computer). Đó là cấu trúc một máy tính thành một chuỗi các cấp, lập trình viên làm việc trên cấp n không quan tâm đến các cấp khác.
PHẦN 2: NHỮNG THÀNH PHẦN CƠ BẢN TRONG MÁY TÍNH.
2.1. MAINBOARD:
Thuật ngữ Bo mạch chủ thường dùng nhiều nhất trong ngành công nghiệp máy tính nói chung như một từ dành riêng, mặc dù có rất nhiều thiết bị khác cũng có thể có bản mạch chính được gọi là "bo mạch chủ". Bài viết này nói đến Bo mạch chủ trong các máy tính nói chung mà chú trọng nhiều hơn là của máy tính cá nhân.
Bo mạch chủ là bo mạch in chính và lớn nhất trong một máy PC. Đây là một bản mạch đóng vai trò trung gian giao tiếp giữa các thiết bị với nhau, cho phép tất cả các bộ phận khác của một máy tính kết hợp lại với nhau, tạo thành một hệ thống hoàn c