Với nhu cầu trao đổi thông tin, bắt buộc các cơ quan, tổ chức phải hòa mình vào mạng toàn cầu Internet. An toàn và bảo mật thông tin là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu, khi thực hiện kết nối mạng nội bộ của các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức với Internet. Ngày nay, các biện pháp an toàn thông tin cho máy tính cá nhân cũng như các mạng nội bộ đã được nghiên cứu và triển khai. Tuy nhiên, vẫn thường xuyên có các mạng bị tấn công, có các tổ chức bị đánh cắp thông tin, gây nên những hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Những vụ tấn công này nhằm vào tất cả các máy tính có mặt trên Internet, các máy tính của các công ty lớn như Microsoft, IBM, các trường đại học và các cơ quan nhà nước, các tổ chức quân sự, nhà băng, một số vụ tấn công với quy mô khổng lồ (có tới 100.000 máy tính bị tấn công). Hơn nữa những con số này chỉ là phần nổi của tảng băng trôi. Một phần rất lớn các vụ tấn công không được thông báo vì nhiều lý do, trong đó có thể kể đến nỗi lo mất uy tín hoặc chỉ đơn giản những người quản trị dự án không hề hay biết những vụ tấn công nhằm vào hệ thống của họ.
Không chỉ các vụ tấn công tăng lên nhanh chóng mà các phương pháp tấn công cũng liên tục được hoàn thiện. Điều đó một phần do các nhân viên quản trị hệ thống ngày càng đề cao cảnh giác. Vì vậy việc kết nối vào mạng Internet mà không có các biện pháp đảm bảo an ninh thì cũng được xem là tự sát.
Từ nhu cầu phát triển, đòi hỏi các cơ quan, tổ chức phải hòa mình vào mạng toàn cầu, mạng Internet song vẫn phải đảm bảo an toàn thông tin trong quá trình kết nối. Bởi vậy, em đã quyết định chọn đề tài”Tìm hiểu và nghiên cứu hệ thống phần mềm phát hiện và phòng chống xâm nhập”, nhằm giám sát luồng thông tin ra, vào và bảo vệ các hệ thống mạng khỏi sự tấn công từ Internet. Nội dung đề tài này sẽ trình bày một cách khái quát về hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập(IDS&IPS), cách bảo vệ mạng bằng Snort, cách xây dựng Snort trên hệ thống mã nguồn mở sao cho hệ thống vừa an toàn vừa tiết kiệm một cách tối đa.
Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập.
Chương này mô tả khái niệm, vai trò và những ưu nhược điểm của hệ thống phát hiện nhập, nghiên cứu mô hình kiến trúc và hoạt động của hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập
Chương 2: Cấu trúc snort, chức năng snort, luật snort.
Nghiên cứu về hệ thống Snort bao gồm: cấu trúc, các thành phần, chế độ làm việc, tập luật của Snort.
Chương 3: Triển khai snort trên một hệ thống mạng.
Phân tích và đánh giá hoạt động của Snort thông qua mô phỏng một vài kiểu tấn công mạng.
92 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2861 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tìm hiểu và nghiên cứu hệ thống phần mềm phát hiện và phòng chống xâm nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được đồ án tốt nghiệp này là một quá trình tích lũy kiến thức lâu dài dưới mái trường học viện. Trong quá trình đó, học tập của em đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ rất tận tình của Thầy Cô, bạn bè.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến tất cả các Thầy Cô giáo của Học Viện Kỹ thuật mật mã đã tận tình hướng dẫn và truyền đạt kiến thức cho em, nó sẽ là hành trang quý giá nhất cho em bước vào đời.
Em xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Nguyễn Hông Quang tận tình chỉ bảo và đóng góp ý kiến trong trong suốt quá trình em làm đồ án tốt nghiệp này.
Em xin cảm ơn các Thầy Cô trong khoa An toàn thông tin đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt đồ án tốt nghiệp này.
Cuối cùng em cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè những người thân luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em.
Do còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên luân văn còn nhiều thiếu sót em rất mong được sự phê bình, đánh giá và góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, Ngày... Tháng 06 Năm 2009.
Sinh viên
Lê Minh Hùng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Với nhu cầu trao đổi thông tin, bắt buộc các cơ quan, tổ chức phải hòa mình vào mạng toàn cầu Internet. An toàn và bảo mật thông tin là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu, khi thực hiện kết nối mạng nội bộ của các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức với Internet. Ngày nay, các biện pháp an toàn thông tin cho máy tính cá nhân cũng như các mạng nội bộ đã được nghiên cứu và triển khai. Tuy nhiên, vẫn thường xuyên có các mạng bị tấn công, có các tổ chức bị đánh cắp thông tin, …gây nên những hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Những vụ tấn công này nhằm vào tất cả các máy tính có mặt trên Internet, các máy tính của các công ty lớn như Microsoft, IBM, các trường đại học và các cơ quan nhà nước, các tổ chức quân sự, nhà băng, …một số vụ tấn công với quy mô khổng lồ (có tới 100.000 máy tính bị tấn công). Hơn nữa những con số này chỉ là phần nổi của tảng băng trôi. Một phần rất lớn các vụ tấn công không được thông báo vì nhiều lý do, trong đó có thể kể đến nỗi lo mất uy tín hoặc chỉ đơn giản những người quản trị dự án không hề hay biết những vụ tấn công nhằm vào hệ thống của họ.
Không chỉ các vụ tấn công tăng lên nhanh chóng mà các phương pháp tấn công cũng liên tục được hoàn thiện. Điều đó một phần do các nhân viên quản trị hệ thống ngày càng đề cao cảnh giác. Vì vậy việc kết nối vào mạng Internet mà không có các biện pháp đảm bảo an ninh thì cũng được xem là tự sát.
Từ nhu cầu phát triển, đòi hỏi các cơ quan, tổ chức phải hòa mình vào mạng toàn cầu, mạng Internet song vẫn phải đảm bảo an toàn thông tin trong quá trình kết nối. Bởi vậy, em đã quyết định chọn đề tài”Tìm hiểu và nghiên cứu hệ thống phần mềm phát hiện và phòng chống xâm nhập”, nhằm giám sát luồng thông tin ra, vào và bảo vệ các hệ thống mạng khỏi sự tấn công từ Internet. Nội dung đề tài này sẽ trình bày một cách khái quát về hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập(IDS&IPS), cách bảo vệ mạng bằng Snort, cách xây dựng Snort trên hệ thống mã nguồn mở sao cho hệ thống vừa an toàn vừa tiết kiệm một cách tối đa.
Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập.
Chương này mô tả khái niệm, vai trò và những ưu nhược điểm của hệ thống phát hiện nhập, nghiên cứu mô hình kiến trúc và hoạt động của hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập
Chương 2: Cấu trúc snort, chức năng snort, luật snort.
Nghiên cứu về hệ thống Snort bao gồm: cấu trúc, các thành phần, chế độ làm việc, tập luật của Snort.
Chương 3: Triển khai snort trên một hệ thống mạng.
Phân tích và đánh giá hoạt động của Snort thông qua mô phỏng một vài kiểu tấn công mạng.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG PHÁT HIỆN XÂM NHẬP
1.1. Tổng quan về các nguy cơ an ninh.
Ngày nay, nhu cầu trao đổi dữ liệu qua hệ thống mạng máy tính trở thành vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động của xã hội. Vấn đề bảo đảm an ninh, an toàn cho thông tin trên mạng ngày càng là mối quan tâm hàng đầu của các công ty, các tổ chức, các nhà cung cấp dịch vụ. Cùng với thời gian, các kỹ thuật tấn công ngày càng tinh vi hơn khiến các hệ thống an ninh mạng trở nên mất hiệu quả. Các hệ thống an ninh mạng truyền thống thuần túy dựa trên các tường lửa nhằm kiểm soát luồng thông tin ra vào hệ thống mạng một cách cứng nhắc dựa trên các luật bảo vệ cố định. Với kiểu phòng thủ này, các hệ thống an ninh sẽ bất lực trước kỹ thuật tấn công mới, đặc biệt là các cuộc tấn công nhằm vào điểm yếu của hệ thống.
1.1.1. Những kiểu tấn công nhằm vào điểm yếu của hệ thống.
Có bốn kiểu tấn công đặc biệt là:
Thăm dò.
Truy cập.
Từ chối dịch vụ (DoS).
Ứng dụng web.
1.1.1.1. Kiểu tấn công thăm dò.
Thăm dò là việc thu thập dữ liệu trái phép về tài nguyên, các lỗ hổng hoặc dịch vụ của hệ thống. Các cách tấn công truy cập hay DoS thường được tiến hành bởi kiểu tấn công thăm dò. Hiển nhiên, các hacker phải biết có thể tấn công cái gì trước khi xâm nhập. Thăm dò giống như một kẻ trộm nhà băng muốn biết có bao nhiêu bảo vệ đang làm nhiệm vụ, bao nhiêu camera, vị trí của chúng và đường thoát hiểm. Thăm dò là một kiểu tấn công, nó cũng là một giai đoạn tấn công.
Hình 1: Tấn công thăm dò IP.
1.1.1.2. Kiểu tấn công truy cập.
Truy cập là một thuật ngữ rộng miêu tả bất kỳ kiểu tấn công nào đòi hỏi người xâm nhập lấy được quyền truy cập trái phép của một hệ thống bảo mật với mục đích thao túng dữ liệu, nâng cao đặc quyền, hay đơn giản chỉ là truy cập vào hệ thống:
a). Tấn công truy cập hệ thống: Truy cập hệ thống là hành động nhằm đạt được quyền truy cập bất hợp pháp đến một hệ thống mà ở đó hacker không có tài khoản sử dụng. Hacker thường tìm kiếm quyền truy cập đến một thiết bị bằng cách chạy một đoạn mã hay bằng những công cụ hack (hacking tool), hay là khai thác một yếu điểm của ứng dụng hoặc một dịch vụ đang chạy trên máy chủ.
b). Tấn công truy cập thao túng dữ liệu: Thao túng dữ liệu xuất hiện khi kẻ xâm nhập đọc, viết, xóa, sao chép hay thay đổi dữ liệu. Nó có thể đơn giản như việc tìm phần mềm chia sẻ (share) trên máy tính Window 9x hay NT, hay khó hơn như việc cố gắng xâm nhập một hệ thống tín dụng của cục thông tin (credit bureau’s information).
c). Tấn công truy cập nâng cao đặc quyền: Nâng cao đặc quyền là một dạng tấn công phổ biến. Bằng cách nâng cao đặc quyền, kẻ xâm nhập có thể truy cập vào các files hay folder dữ liệu mà tài khoản người sử dụng ban đầu không được cho phép truy cập. Khi hacker đạt được mức độ quyền truy cập đủ cao, họ có thể cài đặt phần mềm như là backdoors và Trojan horses, cũng như cho phép truy cập sâu hơn và thăm dò. Mục đích chung của hacker là chiếm được quyền truy cập ở mức độ quản trị. Khi đã đạt được mục đích đó, họ có toàn quyền điều khiển hệ thống mạng.
1.1.1.3. Kiểu tấn công từ chối dịch vụ.
Kiểu tấn công DoS được thực hiện nhằm làm vô hiệu hóa, làm hư hỏng , hay gây tổn hại đến tài nguyên mạng với mục đích cản trở việc sử dụng những hệ thống này của người dùng. Dạng phạm tội điện tử này là dạng tấn công tồi tệ nhất mà các công ty thương mại điện tử phải đối mặt bởi vì mục đích duy nhất của hacker là ngăn chặn người dùng sử dụng các dịch vụ điện tử của các công ty. Ý định của dạng tấn công này chỉ đơn giản nhằm gây tổn hại và chống lại một công ty trong việc buôn bán.
Hình 2: Tấn công Ddos.
Một hacker với một PC ở nhà phải mất một lượng lớn thời gian tạo ra đủ lưu lượng mạng để làm quá tải một nhóm máy chủ Internet . Để tấn công DoS hiệu quả, hacker sử dụng nhiều hệ thống máy tính khác nhau nhằm lấn át máy chủ (đích). Sử dụng nhiều hệ thống máy tính để tấn công máy chủ hay mạng được gọi là tấn công từ chối dịch vụ phân phối (DDoS). Dạng tấn công này đã từng thành công khi tấn công web site của Yahoo!, ebay và CNN.com. Một hacker liên quan sau đó bị bắt và bị truy tố.
Tấn công Ddos gồm các giai đoạn sau:
a). Giai đoạn đầu tiên – Mục tiêu: Là giai đoạn định nghĩa đối tượng. Điều đầu tiên cần làm rõ trong mọi hoạt động cũng như việc hacking là xác định được mục tiêu. Kết quả của việc xác lập mục tiêu của kiểu tấn công dẫn đến việc hình thành, chọn lựa những những công cụ và phương pháp phù hợp. Mục tiêu đơn giản là toàn bộ mục đích của người xâm nhập. Nếu kẻ xâm nhập có động cơ trả thù thì kiểu tấn công DoS phù hợp với nhu cầu đó. Nếu kẻ tấn công là một đối thủ thì, xâm nhập hệ thống và thao túng dữ liệu mới là mục tiêu . Khi kẻ xâm nhập tiến hành những bước của một kiểu tấn công, thì mục tiêu có thể và thường thay đổi Một yếu tố quan trọng khác nữa trong việc xác định mục tiêu là động cơ đằng sau sự xâm nhập. Hầu hết những script kiddies (hacker mới vào nghề) bị thúc đẩy bởi sự hồi hộp, gay cấn trong khi đó những hacker cao cấp bị thúc đẩy bởi những động cơ như thử thách trí tuệ, trả thù, kiếm tiền bất hợp pháp.
b). Giai đoạn hai thăm dò: Giai đoạn thăm dò, như chính tựa đề của nó, là giai đoạn mà hacker sử dụng nhiều nguồn tài nguyên để thu thập thông tin về hệ thống đối tượng. Thông thường những hacker có kinh nghiệm thường thu thập những thông tin về công ty đối tượng, như là vị trí của công ty, số điện thoại, tên của những nhân viên, địa chỉ e-mail, tất cả đều hữu dụng với người xâm nhập có kinh nghiệm.
c). Giai đoạn thứ ba giai đoạn tấn công: Giai đoạn cuối cùng là giai đoạn tấn công. Trong giai đoạn tấn công kẻ xâm nhập bắt đầu cố gắng xâm nhập mạng và tài nguyên hệ thống trên mạng. Bằng cách sử dụng các thông tin đã thu thập được, một vài hacker có thể thực hiện việc tấn công nhiều lần cho đến khi phát hiện được lỗi bảo mật để có thể khai thác.
1.1.1.4. Kiểu tấn công qua ứng dụng web.
Theo số liệu thống kê từ các công ty bảo mật hàng đầu hiện nay, thời gian gần đây số lượng các cuộc tấn công vào ứng dụng web đã tăng lên nhanh chóng (75% các cuộc tấn công được thực hiện là ở lớp ứng dụng web).. Trong đó hai kĩ thuật tấn công được các hacker sử dụng phổ biến là cross-site scripting và sql injection và hình sau đây:
Hình 3: Số liệu tấn công ứng dụng web.
a). Kiểu tấn công cross-site scripting (hay còn gọi là xss): Được các hacker tiến hành bằng cách nhúng các thẻ script vào một url (uniform resource locator) và tìm cách lừa người dùng nhấn vào những liên kết này. Khi đó đoạn mã độc hại này sẽ được thực thi trên máy tính của nạn nhân. Kĩ thuật thực hiện các cuộc tấn công kiểu này không có gì phức tạp và chủ yếu là hacker lợi dụng sự tin cậy giữa người dùng và server (bởi vì các url dường như xuất phát từ nguồn đáng tin cậy) cùng với việc không thẩm tra kĩ càng dữ liệu vào/ra ở phía server để từ chối phục vụ những url bị chèn thêm các mã độc hại.
Hình 4: Tấn công XSS.
b). SQL Injection: Là kỹ thuật liên quan đến chèn các từ khoá, các lệnh của ngôn ngữ SQL (là ngôn ngữ dùng để truy vấn, thao tác trên một cơ sở dữ liệu quan hệ) vào dữ liệu đầu vào của các ứng dụng web để điều khiển quá trình thực thi câu lệnh SQL ở server.
1.1.2. Vấn đề bảo mật hệ thống mạng.
1.1.2.1. Các vấn dề chung về bảo mật hệ thống mạng.
Đặc điểm chung của một hệ thống mạng là có nhiều người sử dụng chung và hân tán về mặt địa lý nên việc bảo vệ tài nguyên (mất mát hoặc sử dụng không hợp lệ) phức tạp hơn nhiều so với việc môi trường một máy tính đơn lẻ, hoặc một người sử dụng.
Hoạt động của người quản trị hệ thống mạng phải đảm bảo các thông tin trên mạng là tin cậy và sử dụng đúng mục đích, đối tượng đồng thời đảm bảo mạng hoạt động ổn định không bị tấn công bởi những kẻ phá hoại.
Nhưng trên thực tế là không một mạng nào đảm bảo là an toàn tuyệt đối, một hệ thống dù được bảo vệ chắc chắn đến mức nào thì cũng có lúc bị vô hiệu hóa bởi những kẻ có ý đồ xấu.
Trong nội dung đề tài của em là “Tìm hiểu và triển khai hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập”. Trong nội dung về lý thuyết của đề tài em xin trình bày về một số khái niệm sau:
1.1.2.2. Khái niệm bảo mật hệ thống mạng máy tính.
a). Đối tượng tấn công mạng (intruder): Đối tượng là những cá nhân hoặc tổ chức sử dụng những kiến thức về mạng và các công cụ phá hoại (gồm phần cứng hoặc phần mềm) để dò tìm các điểm yếu và các lỗ hổng bảo mật trên hệ thống, thực hiện các hoạt động xâm nhập và chiếm đoạt tài nguyên trái phép. Một số đối tượng tấn công mạng như:
Hacker: là những kẻ xâm nhập vào mạng trái phép bằng cách sử dụng các công cụ phá mật khẩu hoặc khai thác các điểm yếu của thành phần truy nhập trên hệ thống.
Masquerader: Là những kẻ giả mạo thông tin trên mạng như giả mạo địa chỉ IP, tên miền, định danh người dùng…
Eavesdropping: Là những đối tượng nghe trộm thông tin trên mạng, sử dụng các công cụ Sniffer, sau đó dùng các công cụ phân tích và debug để lấy được các thông tin có giá trị.
Những đối tượng tấn công mạng có thể nhằm nhiều mục đích khác nhau như ăn cắp các thông tin có giá trị về kinh tế, phá hoại hệ thống mạng có chủ định, hoặc có thể đó là những hành động vô ý thức…
b). Các lỗ hổng bảo mật: Các lỗ hổng bảo mật là những điểm yếu trên hệ thống hoặc ẩn chứa trong một dịch vụ mà dựa vào đó kẻ tấn công có thể xâm nhập trái phép vào hệ thống để thực hiện những hành động phá hoại chiếm đoạt tài nguyên bất hợp pháp.
c). Chính sách bảo mật: Chính sách bảo mật là tập hợp các quy tắc áp dụng cho những người tham gia quản trị mạng, có sử dụng các tài nguyên và các dịch vụ mạng. Đối với từng trường hợp phải có chính sách bảo mật khác nhau. Chính sách bảo mật giúp người sử dụng biết trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ các tài nguyên trên mạng, đồng thời còn giúp cho nhà quản trị mạng thiết lập các biên pháp đảm bảo hữu hiệu trong quá trình trang bị, cấu hình và kiểm soát hoạt động của hệ thống và mạng.
1.1.2.3. Lỗ hổng bảo mật và phương thức tấn công mạng.
a). Các loại lỗ hổng: Có nhiều các tổ chức đã tiến hành phân loại các dạng lỗ hổng đặc biệt. Theo bộ quốc phòng Mỹ các loại lỗ hổng được phân làm ba loại như sau:
Lỗ hổng loại C: Cho phép thực hiện các hình thức tấn công theo DoS (Denial of Services- Từ chối dịch vụ) Mức độ nguy hiểm thấp chỉ ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ, làm ngưng trệ gián đoạn hệ thống, không làm phá hỏng dữ liệu hoặc đạt được quyền truy cập bất hợp pháp. Hiện nay chưa có một biện pháp hữu hiệu nào để khắc phục tình trạng tấn công kiểu này vì bản thân thiết kế ở tầng Internet (IP) nói riêng và bộ giao thức TCP/IP nói chung đã ẩn chứa những nguy cơ tiềm tang của các lỗ hổng loại này.
Lỗ hổng loại B: Cho phép người sử dụng có thêm các quyền trên hệ thống mà không cần kiểm tra tính hợp lệ dẫn đến mất mát thông tin yêu cầu cần bảo mật. Lỗ hổng này thường có trong các ứng dụng trên hệ thống . Có mức độ nguy hiểm trung bình. Lỗ hổng loại B này có mức độ nguy hiểm hơn lỗ hổng loại C. Cho phép người sử dụng nội bộ có thể chiếm được quyền cao hơn hoặc truy nhập không hợp pháp. Những lỗ hổng loại này thường xuất hiện trong các dịch vụ trên hệ thống. Người sử dụng local được hiểu là người đã có quyền truy nhập vào hệ thống với một số quyền hạn nhất định. Một dạng khác của lỗ hổng loại B xảy ra với các chương trình viết bằng mã nguồn C. Những chương trình viết bằng mã nguồn C thường sử dụng một vùng đệm, một vùng trong bộ nhớ sử dụng để lưu trữ dữ liệu trước khi xử lý. Người lập trình thường sử dụng vùng đệm trong bộ nhớ trước khi gán một khoảng không gian bộ nhớ cho từng khối dữ liệu. Để hạn chế được các lỗ hổng loại B phải kiêm soát chặt chẽ cấu hình hệ thống và các chương trình.
Lỗ hổng loại A: Cho phép người ngoài hệ thống có thể truy cập bất hợp pháp vào hệ thống. Có thể làm phá huỷ toàn bộ hệ thống. Loại lỗ hổng này có mức độ rất nguy hiểm đe dọa tính toàn vẹn và bảo mật của hệ thống. Các lỗ hổng này thường xuất hiện ở những hệ thống quản trị yếu kém hoặc không kiểm soát được cấu hình mạng. Những lỗ hổng loại này hết sức nguy hiểm vì nó đã tồn tại sẵn có trên phần mềm sử dụng, người quản trị nếu không hiểu sâu về dịch vụ và phần mềm sử dụng có thể bỏ qua điểm yếu này. Vì vậy thường xuyên phải kiểm tra các thông báo của các nhóm tin về bảo mật trên mạng để phát hiện những lỗ hổng loại này. Một loạt các chương trình phiên bản cũ thường sử dụng có những lỗ hổng loại A như: FTP, Gopher, Telnet, Sendmail, ARP, finger...
b). Các hình thức tấn công mạng phổ biến:
Scanner: Là một chương trình tự động rà soát và phát hiện những điểm yếu về bảo mật trên một trạm làm việc cục bộ hoặc một trạm ở xa. Một kẻ phá hoại sử dụng chương trình Scanner có thể phát hiện ra những lỗ hổng về bảo mật trên một Server dù ở xa. Cơ chế hoạt động là rà soát và phát hiện những cổng TCP/UDP được sử dụng trên hệ thống cần tấn công và các dịch vụ sử dụng trên hệ thống đó. Scanner ghi lại những đáp ứng trên hệ thống từ xa tương ứng với dịch vụ mà nó phát hiện ra. Từ đó nó có thể tìm ra điểm yếu của hệ thống. Các chương trình Scanner có vai trò quan trọng trong một hệ thống bảo mật, vì chúng có khả năng phát hiện ra những điểm yếu kém trên một hệ thống mạng.
Password Cracker: Là một chương trình có khả năng giải mã một mật khẩu đã được mã hoá hoặc có thể vô hiệu hoá chức năng bảo vệ mật khẩu của một hệ thống. Một số chương trình phá khoá có nguyên tắc hoạt động khác nhau. Một số chương trình tạo ra danh sách các từ giới hạn, áp dụng một số thuật toán mã hoá từ kết quả so sánh với Password đã mã hoá cần bẻ khoá để tạo ra một danh sách khác theo một logic của chương trình. Khi thấy phù hợp với mật khẩu đã mã hoá, kẻ phá hoại đã có được mật khẩu dưới dạng text . Mật khẩu text thông thường sẽ được ghi vào một file. Biện pháp khắc phục đối với cách thức phá hoại này là cần xây dựng một chính sách bảo vệ mật khẩu đúng đắn.
Sniffer: Là các công cụ (phần cứng hoặc phần mềm)”bắt” các thông tin lưu chuyển trên mạng và lấy các thông tin có giá trị trao đổi trên mạng. Sniffer có thể “bắt” được các thông tin trao đổi giữa nhiều trạm làm việc với nhau. Thực hiện bắt các gói tin từ tầng IP trở xuống. Mục đích của các chương trình sniffer đó là thiết lập chế độ promiscuous (mode dùng chung) trên các card mạng ethernet - nơi các gói tin trao đổi trong mạng - từ đó "bắt" được thông tin. Việc phát hiện hệ thống bị sniffer không phải đơn giản, vì sniffer hoạt động ở tầng rất thấp, và không ảnh hưởng tới các ứng dụng cũng như các dịch vụ hệ thống đó cung cấp. Tuy nhiên việc xây dựng các biện pháp hạn chế sniffer cũng không quá khó khăn nếu ta tuân thủ các nguyên tắc Không cho người lạ truy nhập vào các thiết bị trên hệ thống ,quản lý cấu hình hệ thống chặt chẽ và thiết lập các kết nối có tính bảo mật cao thông qua các cơ chế mã hoá.
Trojans: Là một chương trình chạy không hợp lệ trên một hệ thống. Với vai trò như một chương trình hợp pháp. Trojans này có thể chạy được là do các chương trình hợp pháp đã bị thay đổi mã của nó thành. Tuy nhiên có những trường hợp nghiêm trọng hơn những kẻ tấn công tạo ra những lỗ hổng bảo mật thông qua Trojans và kẻ tấn công lấy được quyền root trên hệ thống và lợi dụng quyền đó để phá hủy một phần hoặc toàn bộ hệ thống hoặc dùng quyền root để thay đổi logfile, cài đặt các chương trình trojans khác mà người quản trị không thể phát hiện được gây ra mức độ ảnh hưởng rất nghiêm trọng và người quản trị chỉ còn cách cài đặt lại toàn bộ hệ thống.
1.1.2.4. Vấn đề bảo mật cho hệ thống mạng doanh nghiệp.
Khi nói đến vấn đề bảo mật cho mạng LAN ta thường quan tâm tới những vấn đề chính là bảo mật thông tin dữ liệu trao đổi bên trong mạng nội bộ, bảo mật thông tin dữ liệu trao đổi từ trong mạng ra bên ngoài và từ bên ngoài vào trong mạng. Việc kiểm soát được những truy cập bất hợp pháp từ bên ngoài vào cũng như kiểm soát những truy cập không cho phép từ trong nội bộ mạng ra bên ngoài. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Internet và sự kết nối mạng nội bộ với Internet thì vấn đề đảm bảo an toàn, an ninh mạng càng trở nên khó khăn và cần thiết. Hiện nay để bảo mật cho mạng LAN có nhiều phương pháp trong đó có một số phương pháp phổ biến và đáng tin cậy đó là:
Mạng riêng ảo (Virtual Private Network- VPN): Là sự mở rộng mạng riêng của các công ty, tổ chức thông qua sử dụng các kết nối mạng công cộng hoặc mạng chia sẻ như Internet. VPN cung cấp cho khách hàng đầy đủ các tính năng mà một kênh thuê riêng có được nhưng với giá thành rẻ hơn do sử dụng hạ tầng cơ sở mạng công cộng. VPN sử dụng giao thức để tạo đường hầm