Việt Nam có hơn 3000 km bờ biển, và đây là khu vực sinh sống, nguồn sinh kế cho hàng triệu người dân. Vùng ven biển nước ta có dân cư tập trung khá đông đúc, chiếm khoảng 30% tổng dân số của cả nước. Số người trong độ tuổi lao động có khoảng 10,2 triệu người. Dự báo đến năm 2010 dân số vùng ven biển khoảng gần 27 triệu người, trong đó gần 18 triệu người ở độ tuổi lao động. Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47-48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế vùng ven biển đạt khoảng 26 – 27%. Dự báo trong tương lai, cùng với việc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, sẽ có mức gia tăng nhanh hơn rất nhiều so với hiện nay.
Biển là di sản của nhân loại, là kho dự trữ cuối cùng của loài người nói chung và của người dân Việt Nam nói riêng, về lương thực, thực phẩm và nguyên, nhiên liệu. Vì vậy, phải cân nhắc đến tính bền vững trong phát triển kinh tế khu vực biển và ven biển. Khai thác biển đã đem lại những lợi ích kinh tế - xã hội bước đầu quan trọng, nhưng việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên khu vực biển và ven biển chưa hiệu quả, thiếu bền vững.
Là một xã ven biển miền trung, xã Hải An thuộc huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị có đặc điểm ít tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên đất (đất cát nghèo dinh dưỡng), khí hậu khô nóng khắc nghiệt, nhiều đụn cát, bãi cát rộng, chịu tác động mạnh mẽ của hiện tượng sa mạc hoá, và thiếu nước vào mùa khô. Lợi thế của khu vực nói chung và tỉnh Quảng Trị nói riêng là nằm trên hành lang kinh tế đông – tây, cầu nối kinh tế bắc – nam, là khu vực có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế hướng ra Biển Đông và đảm bảo an ninh quốc phòng nước ta. Khu vực ven biển Quảng Trị thuận lợi cho đánh bắt nuôi trồng thuỷ hải sản, phát triển du lịch, giao lưu kinh tế trong và ngoài nước, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế khu vực ven biển.
Người dân xã Hải An, sống chủ yếu vào đánh bắt hải sản và sản xuất nông nghiệp. Nhu cầu đánh bắt cao cùng với gia tăng dân số, làm cho nguồn lợi ven bờ cạn kiệt dần, bên cạnh đó quỹ đất cho sản xuất nông nghiệp chỉ có hạn. Tuy vậy, nếu xây dựng các khu bảo tồn biển để bảo vệ tài nguyên biển và giảm bớt đánh bắt ven bờ lại có khả năng ảnh hưởng xấu tới sinh kế của người dân ven biển do chúng không thể mang lại lợi ích tức thì. Vậy làm thế nào để vừa bảo vệ môi trường, vừa đảm bảo sinh kế cho người dân, đặc biệt là trước tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra như hiện nay? Để phần nào giải quyết bài toàn này, việc tiến hành nghiên cứu, đánh giá nhằm xây dựng mô hình kinh tế sinh thái phù hợp với mục đích giảm sức ép đến khai thác tài nguyên thiên nhiên và bước đầu đánh giá, dự báo tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu tới sinh kế của người dân địa phương đã được tiến hành thực hiện. Đây cũng chính là nội dung của đề tài “Xác lập cơ sở khoa học địa lý phục vụ sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên khu vực ven biển huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị” đặt ra để nghiên cứu.
87 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1838 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Xác lập cơ sở khoa học địa lý phục vụ sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên khu vực ven biển huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC HÌNH
Hình 11. Sơ đồ ranh giới đới bờ [15] 9
Hình 12. Mối quan hệ giữa đới bờ và tài nguyên đới bờ [17] 10
Hình 13. Tỷ lệ dự án trên nhóm mục tiêu thực hiện [5] 14
Hình 14. Số lượng dự án liên quan đến tài nguyên và môi trường của các tỉnh ven biển Việt Nam 15
Hình 15. Số lượng dự án liên quan đến tài nguyên và môi trường của các tỉnh ven biển Việt Nam 16
Hình 16. Mười (10) đơn vị tài trợ lớn nhất 17
Hình 17. Sơ đồ về xác định phạm vi của Kinh tế sinh thái. [23] 20
Hình 18. Mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường [23] 20
Hình 19. Mô hình hệ kinh tế sinh thái [12] 22
Hình 21. Sơ đồ vị trí khu vực nghiên cứu 28
Hình 22. Sơ đồ địa mạo xã Hải An, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị 31
Hình 23. Biểu đồ nhiệt độ, độ ẩm trung bình các tháng trong năm [13] 32
Hình 24. Biểu đồ lượng mưa trung bình các tháng trong năm [13] 32
Hình 26. Sơ đồ thổ nhưỡng khu vực xã Hải An, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị 37
Hình 27. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Hải An năm 2008, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị 40
Hình 28. Biểu đồ Cơ cấu sử dụng đất xã Hải An năm 2008 41
Hình 29. Bản đồ mật độ dân số hữu hiệu huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị 45
Hình 210. Biểu đồ cơ cấu kinh tế xã Hải An năm 2008 46
Hình 211. Bản đồ cảnh quan khu vực xã Hải An, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị 50
Hình 212. Chú giải bản đồ cảnh quan xã Hải An, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị 51
Hình 31. Các bước tiến hành đánh giá và dự báo tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu tới sinh kế người dân 55
Hình 32. Quy trình xây dựng mô hình số độ cao xã Hải An 60
Hình 33. Diện tích đất bị ngập khi mực nước biển dâng 0,5 mét 61
Hình 34. Diện tích đất bị ngập khi mực nước biển dâng 01 mét 62
Hình 35. Diện tích đất bị ngập khi mực nước biển dâng 2 mét 62
Hình 36. Mô hình ngập lụt khu vực xã Hải An khi nước biển dâng lên 0,5 mét; Diện tích ngập là 140 ha. 65
Hình 37. Mô hình ngập lụt khu vực xã Hải An khi nước biển dâng lên 1 mét; Diện tích ngập là 215 ha. 66
Hình 38. Mô hình ngập lụt khu vực xã Hải An khi nước biển dâng lên 2 mét; Diện tích ngập là: 361 ha 67
Hình 39. Bản đồ định hướng không gian phát triển xã Hải An 73
Hình 310. Bản đồ quy hoạch lãnh thổ phục vụ quản lý tổng hợp đới bờ dựa vào cộng đồng xã Hải An 76
Hình 311. Hiện trạng vị trí trước khi xây dựng mô hình (10/2008) 80
Hình 312. Sơ đồ mô hình Rừng - Vườn - Ao - Chuồng 81
Hình 313. Hiện trạng mô hình sau khi xây dựng 85
DANH MỤC BẢNG
Bảng 11. Lịch sử quản lý đới bờ [16] 7
Bảng 21. Nhiệt độ trung bình (Ttb), độ ẩm trung bình (rtb) và lượng mưa trung bình (Rtb) các tháng trong năm (2000-2007) 33
Bảng 22. Thống kê đơn vị hành chính thuộc huyện Hải Lăng 42
Bảng 23. Hệ thống phân loại cảnh quan xã Hải An 49
Bảng 31. Các hoạt động sinh kế chính ở xã Hải An, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị 56
Bảng 32. Lượng hóa thành tiền diện tích các loại đất bị ngập khi nước biển dâng lên 0,5 mét 63
Bảng 33. Lượng hóa thành tiền diện tích các loại đất bị ngập khi nước biển dâng lên 1 mét 63
Bảng 34. Lượng hóa thành tiền diện tích các loại đất bị ngập khi nước biển dâng lên 2 mét 64
Bảng 35. Định hướng sử dụng hợp lý cảnh quan xã Hải An 70
Bảng 36. Hiệu quả kinh tế của mô hình Rừng - Vườn - Ao - Chuồng 84
THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
QLTHĐB
Quản lý tổng hợp đới bờ
BĐKH
Biến đổi khí hậu
NSNN
Ngân sách nhà nước
DANIDA
Quỹ hỗ trợ phát triển quốc tế Đan Mạch
CIDA
Quỹ hỗ trợ phát triển quốc tế Canada
IDRC
Trung tâm phát triển tài nguyên quốc tế
NETGOV
Chính phủ Hà Lan
JICA
Quỹ hỗ trợ quốc tế Nhật Bản
SIDA
Quỹ hỗ trợ phát triển quốc tế Thụy Điển
UNDP
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
JBIC
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
WB
Ngân hàng thế giới
BCS
Đất bằng chưa sử dụng
CHN
Đất làm nhà tạm, lán trại
DGT
Đất giao thông
NTD
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
NTS
Đất nuôi trồng thủy sản nước ngọt
OTC
Đất ở nông thôn
RPT
Đất trồng rừng phòng hộ
SMN
Đất sông ngòi, kênh rạch
UB
Đất trụ sở nhà nước
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam có hơn 3000 km bờ biển, và đây là khu vực sinh sống, nguồn sinh kế cho hàng triệu người dân. Vùng ven biển nước ta có dân cư tập trung khá đông đúc, chiếm khoảng 30% tổng dân số của cả nước. Số người trong độ tuổi lao động có khoảng 10,2 triệu người. Dự báo đến năm 2010 dân số vùng ven biển khoảng gần 27 triệu người, trong đó gần 18 triệu người ở độ tuổi lao động. Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47-48% Nguồn: Viện nghiên cứu và phát triển Tp. Hồ Chí Minh
GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế vùng ven biển đạt khoảng 26 – 27%. Dự báo trong tương lai, cùng với việc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, sẽ có mức gia tăng nhanh hơn rất nhiều so với hiện nay.
Biển là di sản của nhân loại, là kho dự trữ cuối cùng của loài người nói chung và của người dân Việt Nam nói riêng, về lương thực, thực phẩm và nguyên, nhiên liệu. Vì vậy, phải cân nhắc đến tính bền vững trong phát triển kinh tế khu vực biển và ven biển. Khai thác biển đã đem lại những lợi ích kinh tế - xã hội bước đầu quan trọng, nhưng việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên khu vực biển và ven biển chưa hiệu quả, thiếu bền vững.
Là một xã ven biển miền trung, xã Hải An thuộc huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị có đặc điểm ít tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên đất (đất cát nghèo dinh dưỡng), khí hậu khô nóng khắc nghiệt, nhiều đụn cát, bãi cát rộng, chịu tác động mạnh mẽ của hiện tượng sa mạc hoá, và thiếu nước vào mùa khô. Lợi thế của khu vực nói chung và tỉnh Quảng Trị nói riêng là nằm trên hành lang kinh tế đông – tây, cầu nối kinh tế bắc – nam, là khu vực có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế hướng ra Biển Đông và đảm bảo an ninh quốc phòng nước ta. Khu vực ven biển Quảng Trị thuận lợi cho đánh bắt nuôi trồng thuỷ hải sản, phát triển du lịch, giao lưu kinh tế trong và ngoài nước, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế khu vực ven biển.
Người dân xã Hải An, sống chủ yếu vào đánh bắt hải sản và sản xuất nông nghiệp. Nhu cầu đánh bắt cao cùng với gia tăng dân số, làm cho nguồn lợi ven bờ cạn kiệt dần, bên cạnh đó quỹ đất cho sản xuất nông nghiệp chỉ có hạn. Tuy vậy, nếu xây dựng các khu bảo tồn biển để bảo vệ tài nguyên biển và giảm bớt đánh bắt ven bờ lại có khả năng ảnh hưởng xấu tới sinh kế của người dân ven biển do chúng không thể mang lại lợi ích tức thì. Vậy làm thế nào để vừa bảo vệ môi trường, vừa đảm bảo sinh kế cho người dân, đặc biệt là trước tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra như hiện nay? Để phần nào giải quyết bài toàn này, việc tiến hành nghiên cứu, đánh giá nhằm xây dựng mô hình kinh tế sinh thái phù hợp với mục đích giảm sức ép đến khai thác tài nguyên thiên nhiên và bước đầu đánh giá, dự báo tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu tới sinh kế của người dân địa phương đã được tiến hành thực hiện. Đây cũng chính là nội dung của đề tài “Xác lập cơ sở khoa học địa lý phục vụ sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên khu vực ven biển huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị” đặt ra để nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác lập cơ sở khoa học xây dựng mô hình hệ kinh tế sinh thái phục vụ sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên khu vực ven biển huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Nhiệm vụ nghiên cứu
(i) Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý tổng hợp đới bờ và hệ kinh tế sinh thái;
(ii) Phân tích các đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của khu vực;
(iii) Bước đầu đánh giá, dự báo ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới sinh kế của người dân địa phương.
(iv) Xác lập cơ sở khoa học xây dựng mô hình hệ kinh tế sinh thái phục vụ phát triển bền vững dải ven biển huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
(i) Phạm vi không gian lãnh thổ nghiên cứu: khu vực ven biển huyện Hải Lăng gồm hai xã là Hải An và Hải Khê; tuy nhiên do địa bàn nghiên cứu rộng, nội dung nghiên cứu bao gồm nhiều vấn đề phức tạp, đề tài tập trung nghiên cứu trên quy mô lãnh thổ là toàn bộ xã Hải An, huyện Hải lăng, tỉnh Quảng Trị.
(ii) Phạm vi khoa học: nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội, từ đó xây dựng mô hình hệ kinh tế sinh thái phù hợp với điều kiện thực tiễn tại xã Hải An.
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các vấn đề lý luận cơ bản về quản lý tổng hợp đới bờ
Lịch sử nghiên cứu quản lý đới bờ
Mặc dù việc khai thác nguồn tài nguyên ở đới bờ đã có từ lâu đời, nhưng hầu hết các quốc gia ven biển chỉ mới thực sự quan tâm đến vấn đề quản lý nguồn tài nguyên quý giá này từ sau những năm 1960. Lịch sử phát triển của quản lý đới bờ trải qua bốn giai đoạn, được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 11. Lịch sử quản lý đới bờ [16]
Giai đoạn 1
Giai đoạn chuẩn bị
Thời gian
Cuối những năm 1960
Mục tiêu
Tăng cường việc sử dụng tài nguyên
Công tác quản lý
Sử dụng mang tính đơn ngành hoặc có sự kết hợp của một vài ngành nào đó
Phạm vi quản lý
Vùng biển nông ven bờ hoặc một dải hẹp phần đất ven biển
Giai đoạn 2
Giai đoạn bắt đầu
Thời gian
Vào những năm 1970
Mục tiêu
Quản lý việc sử dụng tài nguyên mang tính cục bộ và bảo vệ môi trường
Công tác quản lý
Mang tính đa ngành
Phạm vi quản lý
Quản lý theo ranh giới hành chính hoặc theo tiêu chuẩn
Giai đoạn 3
Tiến tới giai đoạn trưởng thành
Thời gian
Vào những năm 1980
Mục tiêu
Quản lý việc sử dụng đới bờ một cách toàn diện, bảo vệ môi trường và duy trì các vùng nhạy cảm
Công tác quản lý
Mang tính tổng thể
Phạm vi quản lý
Về phía đất liền: giới hạn theo các tiêu chuẩn khác nhau. Về phía biển: trùng với phạm vi vùng hoạt động hàng hải thuộc chủ quyền của quốc gia
Giai đoạn 4
Giai đoạn trưởng thành
Thời gian
Vào những năm 1990
Mục tiêu
Quản lý thống nhất đới bờ, bao gồm cả việc sử dụng và các hệ sinh thái
Công tác quản lý
Quản lý tổng hợp
Phạm vi quản lý
Về phía đất liền: giới hạn theo các tiêu chuẩn khác nhau. Về phía biển: trùng với phạm vi vùng hoạt động hàng hải thuộc chủ quyền của quốc gia và vùng đặc quyền kinh tế
Công tác quản lý đới bờ có sự phát triển liên tục cả về mục tiêu, quy mô cũng như phạm vi quản lý. Quản lý từ mang tính đơn ngành trong một phạm vi hẹp cho đến đa ngành trên phạm vi toàn bộ đới bờ.
Trên thực tế, quan điểm tiếp cận quản lý tổng hợp đới bờ (QLTHĐB) xuất hiện đầu tiên tại Mỹ vào đầu những năm 1970, và đã đạt được một số những thành tựu nhất định trong việc quản lý tài nguyên đới bờ. Sau đó, một số quốc gia có biển đã theo cách tiếp cận như vậy để thực hiện hoặc thử nghiệm một số công việc cụ thể liên quan đến công tác quản lý đới bờ. Cho đến đầu những năm 1980, QLTHĐB đã được sử dụng khá rộng rãi, chương trình QLTHĐB không chỉ thực hiện đơn lẻ ở mỗi quốc gia, mà còn tiến hành trên một khu vực rộng hơn như cho cả khối ASEAN, hoặc cho toàn bộ các quốc gia có biển ở khu vực Nam Á, Châu Âu, Caribe và khu vực các nước Mỹ La Tinh. Những bài học rút ra từ thực tiễn của công tác quy hoạch và thực thi dự án liên quan đến đới bờ là những kinh nghiệm quý báu cho các quốc gia có biển nói chung và cho Việt Nam nói riêng.
Khái niệm về đới bờ và quản lý tổng hợp đới bờ
a) Đới bờ
Đới bờ (Coastal Zone) là một bộ phận đặc biệt và quan trọng của bề mặt Trái Đất, là nơi tiếp xúc giữa các quyển: thạch quyển, sinh quyển, thuỷ quyển, khí quyển. Đới bờ cũng là nơi chứa đựng các hệ sinh thái có năng suất cao, tính đa dạng sinh học lớn. Rất nhiều nhà khoa học thuộc lĩnh vực khác nhau quan tâm đến đới bờ theo hướng cụ thể của mình và có cách nhìn nhận khác nhau, sau đây là một số định nghĩa về đới bờ:
Định nghĩa mang tính khái quát nhất và được sử dụng khá rộng rãi là định nghĩa đới bờ trong mối tương tác giữa môi trường biển và lục địa: “Đới bờ là một vùng chuyển tiếp mà ở đó môi trường biển và môi trường lục địa tương tác lẫn nhau và hình thành một môi trường thống nhất”[15]. Về mặt lý thuyết, định nghĩa này thể hiện một cách đầy đủ bản chất của đới bờ, là một không gian cụ thể mà ở đó môi trường tự nhiên mang tính đặc thù riêng bởi sự kết hợp giữa môi trường biển và môi trường lục địa, đồng thời mang tính tổng quát cao. Đây cũng là định nghĩa được khá nhiều công trình về môi trường tự nhiên của đới bờ sử dụng.
Chương trình quản lý tài nguyên và môi trường của Malaysia năm 1996 lại cho rằng “Đới bờ là một hệ sinh thái giàu có về thực vật cũng như các quá trình vật lý, có động lực mạnh và là môi trường nhạy cảm hơn bất cứ nơi nào trên Trái Đất, là vùng đất và biển, mở rộng về phía biển 10 km và về phía đất liền cũng 10 km”.
Trên quan điểm tổng hợp và hệ thống, Lymarev V.I đã định nghĩa “Đới bờ (hay còn gọi là đới tương tác hiện tại giữa lục địa và biển) là một dải tiếp giám đất - biển không rộng lắm có bản chất độc đáo tạo nên một hợp phần lớp vỏ cảnh quan của Trái Đất và là nơi xảy ra mối tác động tương hỗ phức tạp và đối lập giữa thạch quyển, khí quyển, thuỷ quyển và sinh quyển”.
Theo phạm vi không gian của đới bờ Việt nam có thể được xác định là toàn bộ các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam phù hợp với Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, gồm vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa và bao gồm cả một dải đất liền ven biển (mà hiện nay chưa thể xác định được chiều rộng chính xác của nó). Nội dung của định nghĩa này trên thực tế chỉ thuần tuý mang tính pháp lý để khẳng định chủ quyền vùng biển của các quốc gia có biển.
§íi bê
Cửa sông
Rừng ngập mặn
Rạn san hô
Sông
Vùng ngập triều
Vùng đất thấp
Vùng đất cao
Vùng núi
Hình 11. Sơ đồ ranh giới đới bờ [15]
Hiện nay, Việt Nam chưa có định nghĩa cụ thể xác định về phạm vi và ranh giới của đới bờ. Trong một số nghiên cứu hiện nay, việc lựa chọn dựa trên đối tượng hành chính cơ bản là các tỉnh có ranh giới biển làm phạm vi quan tâm, khảo sát và thu thập số liệu.
Khu vực đới bờ là nơi có môi trường sống đa dạng, với nhiều hệ sinh thái phong phú như cửa sông, cỏ biển, san hô, đầm phá, vũng vịnh, bãi triều v.v. Các sản phẩm tự nhiên của khu vực này trở thành tài nguyên thực sự khi có tác động của con người. Các hành vi này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến vùng ven biển hoặc thông qua mối quan hệ giữa hệ thống ven biển với các hệ thống xung quanh. Các mối quan hệ này có khi là tích cực và cũng có khi là tiêu cực, vì vậy nó tạo nên các dạng môi trường khác nhau ở khu vực ven biển.
Hình 12. Mối quan hệ giữa đới bờ và tài nguyên đới bờ [17]
Do vậy, việc định nghĩa và xác định ranh giới cho đới bờ phục vụ mục đích quản lý phải hết sức linh hoạt và đa dạng, phụ thuộc vào mục đích sử dụng của nó, với ý nghĩa nhằm quy hoạch và quản lý để đạt được sự phát triển một cách bền vững nguồn tài nguyên nơi đây.
Xác định theo mục đích và nhiệm vụ của các chương trình quản lý: không gian của đới bờ thường được xác định theo bốn cách thức sau:
(1) Xác định theo một khoảng cách cố định: trong đó yếu tố tự nhiên của đới bờ được quan tâm, được tính theo một ranh giới nào đó giữa biển và lục địa - thường là theo mực triều trung bình, ranh giới về phía biển thường lấy theo phạm vi chủ quyền của quốc gia.(Chương trình quản lý tài nguyên và môi trường của Malaysia năm 1996, Luật biển quốc tế).
(2) Xác định theo các khoảng cách thay đổi: không gian của đới bờ lấy theo cách thức khoảng cách biến đổi được xác định theo một đường ranh giới nào đó giữa lục địa và biển, nhưng khoảng cách đường bao tính từ ranh giới này thay đổi phụ thuộc vào việc lựa chọn theo: đặc điểm tự nhiên; theo đặc điểm sinh học; theo các mốc công trình; hoặc theo ranh giới hành chính.
(3) Xác định theo mục đích sử dụng: Các tổ chức quốc tế và quốc gia có diện tích biển lớn thường xác định giới hạn của đới bờ theo những vấn đề quản lý cụ thể (Hội nghị về khai thác và sử dụng tài nguyên đới bờ tháng 6 năm 1972 tại Woods Hole, Văn bản hướng dẫn đánh giá tác động môi trường của Ngân hàng Thế giới 1989).
(4) Xác định theo kiểu lồng ghép: Các nhà quản lý cho rằng, ranh giới của đới bờ được xác định theo mục đích và nhiệm vụ quản lý là phù hợp hơn cả. Đới bờ là nơi có môi trường sống hết sức đa dạng và bao gồm nhiều các hệ sinh thái phong phú khác nhau. Các sản phẩm tự nhiên của đới bờ trở thành tài nguyên thực sự khi nó có sự tác động của con người.
Về mặt quản lý, cũng như nhiều nước trên thế giới, Chính phủ Việt Nam cũng đã tuyên bố về đới bờ biển bao gồm các vùng biển của mình phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và các thông lệ quốc tế, nhằm mục đích chính khẳng định về mặt chủ quyền và hoạch định chiến lược, các chính sách lâu dài của quốc gia cho việc quản lý và khai thác sử dụng tài nguyên.
Trong quá trình triển khai các chương trình, dự án của quốc gia, của các bộ, ngành, không gian đới bờ lại được xác định lại một cách cụ thể cho phù hợp với mục tiêu và nội dung nghiên cứu cũng như khả năng đáp ứng về mặt tài chính và kỹ thuật công nghệ. Các tiêu chí để xác định đới bờ biển ở nước ta là tài nguyên thiên nhiên, quản lý xã hội và hành chính pháp luật. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất nào giữa các bộ ngành về ranh giới của đới bờ biển Việt Nam.
Đối với khu vực nghiên cứu xã Hải An, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, theo kết quả nghiên cứu của đề tài KC.09.08/06-10 [8], ranh giới đới bờ được xác định theo các tiêu chí sau: (i) Xác định theo cách thức "khoảng cách thay đổi”; (ii) Việc xác định không gian nghiên cứu được kế thừa kinh nghiệm của các dự án quản lý đới bờ đã được thực hiện thành công trên thế giới và ở Việt Nam; (iii) Dễ triển khai dự án theo các cấp quản lý; (iv) Khu vực nghiên cứu bao chứa được các tài nguyên nguyên thiên nhiên của dải ven bờ như: bãi biển, bãi triều, cửa sông, đầm phá, thềm cát biển, các đụn cát ven biển...; (v) Tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế và dân sinh trong mối tương tác đất biển (quan tâm đến các huyện không giáp biển, nhưng có ảnh hưởng rõ rệt đến phần giáp ranh/hạ lưu). Từ đó, đề tài đã xác định các ranh giới đất liền và ranh giới biển như sau:
- Ranh giới phía đất liền: đề tài xác định các tài nguyên thiên nhiên đới bờ của khu vực nghiên cứu là các dạng tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các thành tạo địa hình được hình thành bởi mối tương tác lục địa-biển trong suốt thời gian từ Đệ Tứ đến nay, đang hiện hữu và ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động phát triển kinh tế xã hội, đồng thời kết hợp với việc giải quyết khó khăn trong triển khai dự án theo các cấp quản lý, đề tài đã lựa chọn phương án tích hợp giữa hai đường ranh giới tự nhiên (theo đường bình độ 25m) với ranh giới hành chính của các xã. Với cách tích hợp như vậy, phạm vi nghiên cứu về phía đất liền của đề tài gồm có 207 xã thuộc đồng bằng ven biển các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế với tổng diện tích 5.106 km2 , chiếm 29% tổng diện tích của cả 3 tỉnh (17671 km2).
- Ranh giới phía biển: Ranh giới phía biển được xác định trên cơ sở đường cơ sở thẳng của chính phủ công bố năm 1982 tính từ nam đảo Cồn Cỏ và theo đề xuất của đề tài KHCN 06-05 năm 1999 đã được Hội đồng Khoa học Nhà nước thông qua ở phần phía bắc đảo Cồn Cỏ. Do đó, phạm vi nghiên cứu về phía biển của đề tài: (i) nằm trong giới hạn của đới bờ theo luật biển quốc tế (200 hải lý tính từ bờ đến hết vùng đặc quyền kinh tế); (ii) thuộc vùng nước nội thuỷ của quốc gia, nơi chính phủ Việt Nam thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền, thuận lợi cho công tác quy hoạch và đưa ra các chính sách quản lý; (iii) chủ yếu nằm trong giới hạn từ 0 đến 50m nước, có thể tham khảo và kế thừa nhiều tài liệu của các đề tài nghiên cứu trước đó. Theo đó, ranh giới về phía biển được xác định cơ bản theo đường đẳng sâu 30m nước. Riêng khu vực đảo Cồn Cỏ, ranh giới được lấy rộng ra đến đường đẳng sâu 50m (giới hạn độ sâu phân bố hệ sinh thái san hô) bao lấy toàn bộ đảo. Tổng diện tích nghiên cứu phía biển của đề tài sẽ là 4.731 km2, bao gồm cả huyện đảo Cồn Cỏ.
Như vậy, khu vực nghiên cứu của đề tài KC 09.08/06-10 tính từ đất liền ra phía biển gồm có các tiểu vùng: (1) dải địa hình gò đồi ; (2) dải cát nội đồng; (3) dải cồn cát ven biển (bãi ngang); (4) dải cát nằm giữa mực triều thấp trung bình và mực triều cao trung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4_Thesis_V.doc
- 5_References_Phu luc_for thesis_101209.doc