Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thư¬ơng mại thư¬ờng chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số l¬ượng các ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là ng¬ười thủ quỹ cho toàn xã hội. Ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng và nhiều dịch vụ ngân hàng thuận tiện cho các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế đặc biệt là các chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ. Do đó có thể nói ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất.
Ngân hàng th¬ương mại tham gia hoạt động trên thị trư¬ờng chứng khoán từ rất lâu. Ngày nay vai trò đó ngày càng đư¬ợc phát huy mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu hình thành thị tr¬ường chứng khoán ở nư¬ớc ta, các ngân hàng th¬ương mại đã tham gia với nhiều hoạt động có hiệu quả song vẫn chư¬a khai thác hết tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, trình độ, nghiệp vụ giao dịch cho thị trư¬ờng non trẻ này.
Hoạt động của ngân hàng thư¬ơng mại và thị tr¬ường chứng khoán là hai mặt của một vấn đề phức tạp. Nó có tác động mạnh mẽ và rất nhạy cảm lẫn nhau. Điều đó luôn đặt ra cho ngân hàng th¬ương mại phải thể hiện vai trò tích cực trong việc điều hoà cung cầu chứng khoán, cung cấp thêm nhiều dịch vụ để hạn chế những bất lợi nhằm phát triển thị trư¬ờng chứng khoán.
Chính vì vậy nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Đo lường ảnh hưởng của hệ thống ngân hàng lên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn hiện nay”, và vì mối quan hệ khá mật thiết giữa TTCK và hệ thống NHTM nên nhóm chúng em sẽ đi sâu vào nghiên cứu ảnh hưởng của hệ thống NHTM tới TTCK Việt Nam hiện nay.
19 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1750 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đo lường ảnh hưởng của hệ thống ngân hàng thương mại lên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng và nhiều dịch vụ ngân hàng thuận tiện cho các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế đặc biệt là các chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ. Do đó có thể nói ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất.
Ngân hàng thương mại tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán từ rất lâu. Ngày nay vai trò đó ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta, các ngân hàng thương mại đã tham gia với nhiều hoạt động có hiệu quả song vẫn chưa khai thác hết tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, trình độ, nghiệp vụ giao dịch cho thị trường non trẻ này.
Hoạt động của ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán là hai mặt của một vấn đề phức tạp. Nó có tác động mạnh mẽ và rất nhạy cảm lẫn nhau. Điều đó luôn đặt ra cho ngân hàng thương mại phải thể hiện vai trò tích cực trong việc điều hoà cung cầu chứng khoán, cung cấp thêm nhiều dịch vụ để hạn chế những bất lợi nhằm phát triển thị trường chứng khoán.
Chính vì vậy nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Đo lường ảnh hưởng của hệ thống ngân hàng lên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn hiện nay”, và vì mối quan hệ khá mật thiết giữa TTCK và hệ thống NHTM nên nhóm chúng em sẽ đi sâu vào nghiên cứu ảnh hưởng của hệ thống NHTM tới TTCK Việt Nam hiện nay.
Phần 1: Vai trò của NHTM trên Thị trường chứng khoán (TTCK)
1.1 Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng thương mại là là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.
(Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa 12 kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16/6/2010)
Chức năng
- Chức năng trung gian tài chính, bao gồm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Chức năng tạo tiền, tức là chức năng sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ cho nền kinh tế.
- Chức năng “sản xuất” bao gồm việc huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo ra “sản phẩm” và dịch vụ ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
1.1.3 Các hoạt động chủ yếu của NHTM
1.1.3.1 Hoạt động huy động vốn
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:
Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài.
Vay vốn ngắn hạn của NHNN.
Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN.
1.1.3.2 Hoạt động tín dụng
- Cho vay: NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau:
- Bảo lãnh: được bảo lãnh vay, thanh toán, thực hiện hợp đồng, đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
- Chiết khấu: được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
- Cho thuê tài chính: được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng.
1.1.3.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Cung cấp các phương tiện thanh toán.
Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước.
Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước.
Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
1.1.3.4 Các hoạt động khác
Góp vốn và mua cổ phần
Tham gia thị trường tiền tệ
Kinh doanh ngoại hối
Tư vấn tài chính…..
1.2 Thị trường chứng khoán và hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, trong đó chuyên môn hóa giao dịch các loại hàng hóa đặc biệt như cổ phiếu, trái phiếu dài hạn, kể cả các công cụ tài chính phát sinh từ cổ phiếu, trái phiếu theo những phương thức giao dịch có tổ chức như giao dịch trên Sở giao dịch Chứng khoán, công ty chứng khoán, công ty giao dịch trực tiếp và qua mạng
1.2.2 Hoạt động của thị trường chứng khoán
1.2.2.1 Thị trường chứng khoán chính thức
Đây là TTCK tập trung, hoạt động đúng theo các quy định của pháp luật, là nơi giao dịch mua bán các loại CK đã được đăng ký (listed or registered securities) hay được biệt lệ. Vì lẽ đó, nó còn được gọi là thị trường niêm yết tập trung.
TTCK chính thức là một tổ chức có thực thể, là thị trường minh bạch và được tổ chức cao, có địa điểm nhất định, với những trang thiết bị cần thiết, ở đó các CK được giao dịch theo những quy chế nghiêm ngặt và nguyên tắc nhất định.
TTCK chính thức có thời biểu mua bán rõ rệt, giá cả được xác định trên cơ sở đấu giá công khai có sự kiểm soát của hội đồng chứng khoán quốc gia
1.2.2.2 Thị trường chứng khoán bán chính thức hay thị trường chứng khoán bán tập trung (thị trường OTC)
Đây là thị trường không có địa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh CK như ở Sở giao dịch chứng khoán, không có khu vực giao dịch, diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, vào thời điểm và tại chỗ mà những người có nhu cầu mua bán CK gặp gỡ nhau. Đây là một loại thị trường bậc cao, được tự động hoá cao độ, hàng ngàn hãng môi giới trong cả nước giao dịch mua bán CK với nhau thông qua hệ thống điện thoại và hệ thống vi tính nối mạng. Nó không phải là thị trường hiện hữu, vì vậy còn được gọi là thị trường giao dịch không qua quầy – thị trường OTC (Over-the-Counter Market).
1.3 Hoạt động của NHTM trên TTCK
1.3.1 Các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK
Hiện nay, mô hình NHTM hoạt động trên TTCK, trên thế giới có 2 loại:
* Mô hình chuyên doanh (hay còn gọi là mô hình đơn năng)
Theo mô hình này, các công ty chứng khoán là công ty chuyên doanh độc lập, các NHTM và các tổ chức tài chính khác không được phép tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán
* Mô hình đa năng bao gồm:
Một là mô hình ngân hàng đa năng hoàn toàn: Mô hình này không có sự tách bạch nào giữa hoạt động ngân hàng và chứng khoán. NHTM không những được hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ mà còn được hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm.
Hai là mô hình đa năng một phần: Các ngân hàng muốn hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán phải thành lập công ty con- công ty chứng khoán , hoạt động độc lập.
1.3.2 Các nghiệp vụ của NHTM trên TTCK
1.3.2.1 Ngân hàng thương mại với hoạt động kinh doanh chứng khoán
Kinh doanh chứng khoán là nghiệp vụ mua bán chứng khoán cho chính mình và tự gánh chịu rủi ro. Với vai trò kinh doanh chứng khoán, các trung gian chứng khoán là một thành viên quan trọng của thị trường chứng khoán, có tác dụng làm cho hoạt động của thị trường đều đặn, không bị gián đoạn và sôi nổi. Là một nhà đầu tư có tổ chức, hoạt động kinh doanh chứng khoán của NHTM được xem là yếu tố trợ giúp cho việc tăng chất lượng và hiệu quả của thị trường.
1.3.2.2 NHTM với nghiệp vụ huy động vốn trên TTCK
NHTM là một tổ chức kinh doanh, cũng cần có vốn để hoạt động. Vốn của NHTM có thể hình thành từ nhiều nguồn. Một nguồn vốn quan trọng của NHTM trong nền kinh tế thị trường là huy động vốn trên TTCK. Luật pháp từng nước khác nhau, song về cơ bản, các NHTM có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư để huy động vốn trên thị trường.
1.3.2.3 NHTM với các nghiệp vụ trung gian trên TTCK
Bản thân NHTM là một định chế tài chính trung gian rất phổ biến và hoạt động rất tích cực trên thị trường tài chính, do đó nó góp phần cực kỳ quan trọng trong hoạt động trung gian trên TTCK. Nghiệp vụ trung gian bao gồm nhiều hoạt động mà NHTM đều có thể tham gia với tư cách của một công ty chứng khoán con. Công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ chức tín dụng. Công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải khai báo thành lập công ty chứng khoán độc lập.
* Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Đây là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nước trên thế giới đã có TTCK, gọi là dịch vụ môi giới chứng khoán (Brokerage service). Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng sẽ đảm trách dịch vụ này và mang lại cho ngân hàng những lợi nhuận từ lệ phí giao dịch hay hoa hồng giao dich rất lớn
* Nghiệp vụ tư vấn chứng khoán
Đây là các hoạt động phân tích, đưa ra các khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán.
* Nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán
NHTM thông thường là cơ quan thích hợp nhất đảm nhiệm việc phân phối chứng khoán ra công chúng. Với một mạng lưới nhiều cơ sở của ngân hàng, công ty chứng khoán con sẽ có chứng khoán rộng rãi phục vụ nhu cầu của nhà đầu tư.
Nghiệp vụ phân phối chứng khoán có thể thực hiện thông qua phương thức bảo lãnh phát hành hay đại lý phát hành.
* Nghiệp vụ đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán
Là một nghiệp vụ rất phổ biến, tại các nước phát triển đã có TTCK nhằm tạo sự tiện ích trong đầu tư.
Phần 2: Quá trình hình thành và phát triển của TTCK
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
2.1 Giai đoạn 2000-2005
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào năm 2001
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
2.2 Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam.
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC
2.3 Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
2.4 Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh.
Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường: Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt CP Nhà nước trong các DN đã cổ phần hóa, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trường CK có nguy cơ thừa "hàng".
2.5 Giai đoạn 2009, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã có sự phục hồi tương đối ấn tượng.
Năm 2009 đã để lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển của TTCK. Những kỷ lục mới, cột mốc quan trọng đã lần lượt được thiết lập: phiên giao dịch ngày 24-2, VN-Index đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm, HNX-Index lùi về dưới mốc 100 điểm khi xuống mức thấp nhất trong lịch sử là 78,06 điểm. Tuy nhiên, bước sang tháng 3-2009, các nhà đầu tư (NĐT) đã lấy lại được niềm tin khi TTCK có một tháng tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11-2008: VN-Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh.
2.6 Giai đoạn 2010: Thị trường diễn biến bất thường
Nếu như trước đây, cổ phiếu ngân hàng được xem là cổ phiếu vua nhờ vốn hóa lớn và khả năng dẫn dắt thị trường. Tuy nhiên, trong cả năm vừa qua, nhóm cổ phiếu này đã không cỏn là chính mình khi liên tục mất giá, thậm chí trong những phiên tăng nóng của thị trường thì nhóm cổ phiếu này cũng chỉ đi ngang. Nhóm cổ phiếu này chỉ có một đợt phục hồi ngắn trong tháng cuối năm sau thông tin các ngân hàng được gia hạn thời gian tăng vốn lên tối thiểu 3.000 tỷ đồng vào cuối năm 2011, thay vì năm 2010 như trước đây. Nguyên nhân khiến nhóm cổ phiếu ngân hàng mất đi tính hấp dẫn, ngoài quy định bắt buộc tăng vốn lên 3.000 tỷ đồng (đã được giải tỏa) còn bởi lý do lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng giảm so với cùng kỳ năm 2009 khiến cho kết quả kinh doanh của các ngân hàng trong quý III đạt được cho là không cao (tính đến cuối quý III, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống chỉ đạt khoảng 19,5%). Đặc biệt, sau 9 tháng hoạt động, nhiều ngân hàng mới chỉ thực hiện được hơn 2/3 chỉ tiêu lợi nhuận cả năm và nhiều ngân hàng phải điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận.
2.7 Năm 2011: thị trường chứng khoán rơi vào vòng xóay suy giảm trầm trọng
Năm 2011, chính sách tiền tệ thắt chặt được triệt để thực thi nhằm đối phó với sự bùng phát của lạm phát. Dưới tác động của việc thực thi chính sách tiền tệ này, TTCK- lĩnh vực được xem là phi sản xuất- đi vào vòng xoáy suy giảm trầm trọng cả về điểm số lẫn thanh khoản. TTCK VN trở thành một trong những thị trường có mức suy giảm mạnh nhất trong khu vực. kết thúc năm 2011, VNINDEX còn 351,55 điểm và HNINDEX còn 58,74 điểm, giảm lần lượt 27,5% và 48,6% so với cuối năm 2010
Những giai đoạn chính của TTCK năm 2011
Xu hướng chủ đạo của năm 2011 là giảm điểm, với hai đợt giảm mạnh nhất diễn ra vào 5/2011 và ba tháng cuối năm
Giai đoạn 1: năm tháng đầu năm.
Thị trường bám sát và phản ứng khá mạnh với những biến động của nền kinh tế vĩ mô và các trạng thái chính sách tiền tệ. các sóng giảm diễn ra trong giai đoạn này đánh dấu biến động khắc nghiệt của nền kinh tế vĩ mô như tỉ giá bất ngờ bị điều chỉnh tăng mạnh, lạm phát bùng phát dẫn đến sự ra đời của nghị quyết 11 về thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, đặc biệt với lĩnh vực phi sản xuất. Nghị quyết 11, trong đó ra hạn mức cụ thể cho tăng trưởng tín dụng ở các lĩnh vực phi sản xuất, là nút thắt cản trở dòng tiền chảy vào thị trường chứng khoán. Thị trường trải qua đợt suy giảm mạnh và nhanh nhất vào tháng 5/2011 khi thời hạn đưa tỉ trọng tín dụng phi sản xuất về dưới 22% gần kề, buộc các NHTM tiến hành thu nợ chứng khoán dẫn đến làn sóng bán giải chấp mạnh. Chỉ trong 5 tháng đầu năm VNINDEX giảm 20% và HNINDEX giảm 40% so với cuối năm 2010
Giai đoạn 2: Sóng giảm nhẹ trong ba tháng tiếp theo do thiếu vắng thông tin
Sau khi giảm mạnh và lập đáy vào ngày 25/5, thị trường có một tuần phục hồi khá tốt sau đó. Đợt phục hồi này chủ yếu mang tính kĩ thuật khi giá cổ phiếu đã giảm xuống mức thấp nhất sau hơn 1 năm. Sau tuần phục hồi này, các chỉ số liên tục đi vào kênh giảm điểm với mức độ nhẹ hơn do vắng bóng thông tin hỗ trợ và trong bối cảnh rủi ro lạm phát đang khá cao và hiện tượng vượt trần lãi suất diễn ra ngày càng phổ biến
Giai đọan 3: thị trường trải qua giai đoạn biến động mạnh nhất trong 4 tháng cuối năm
Một số tin tức vĩ mô tích cực bắt đầu xuất hiện trong gia đọan này như lạm phát lập đỉnh và đi vào chu kì giảm, dữ trữ ngọai hối cải thiện và kì vọng khả năng kéo giảm lãi suất như công bố của thống đốc NHNN. Nhờ vậy, thị trường chứng khoán đã có 3 tuần phục hồi- đợt tăng điểm dài và mạnh nhất trong năm- cuối tháng 8 đến nửa đầu tháng 9 năm 2011 tuy nhiên sau đợt tăng này, thị trường trải qua giai đoạn suy giảm thứ 2 trầm trọng hơn do tác động từ nhiều yếu tố như sự xuất hiện của các vụ đổ vỡ tín dụng đen, khó khăn dẫn đến yêu cầu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán, mối quan hệ quan ngại về khả năng thoái vốn của NĐT ngọai và quan trọng hơn là sự suy giảm lòng tin của NĐT. Đà suy giảm của thị trường theo đó vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt khi kết thúc năm 2011 mặc dù hai chỉ số đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2009
2.8 Giai đoạn 2012: 6 tháng đầu năm
488,07 là mốc điểm cao nhất mà VN-Index đạt được trong 6 tháng đầu năm 2012 (xác lập ngày 8/5/2012). 336,73 là mốc điểm thấp nhất mà VN-Index đạt được trong 6 tháng đầu năm (xác lập ngày 6/1/2012). Như vậy, VN-Index từng có thời điểm đạt mức tăng trưởng tới 44,94%.
83,79 là mốc điểm cao nhất mà HNX-Index đạt được trong 6 tháng đầu năm 2012 (xác lập ngày 7/5/2012). 55,27 là mốc điểm thấp nhất mà HNX-Index đạt được trong 6 tháng đầu năm 2012 (xác lập ngày 9/1/2012). Như vậy, HNX-Index đã có mức tăng trưởng tới 51,60%. Tuy nhiên, nếu tính từ đỉnh thị trường tháng 5/2012, hiện tại cả hai chỉ số đã sụt giảm khoảng 15% giá trị.
Trên sàn UPCoM, chỉ số UPCoM-Index trong 6 tháng đầu năm 2012 xác lập mức đỉnh cao nhất là 36,49 điểm (ngày 25/5), mức thấp nhất là 33,31 điểm (ngày 13/1). Như vậy, chỉ số UPCoM-Index chỉ có mức tăng trưởng 9,55%. So với mức đỉnh đã thiết lập trong nửa đầu năm, hiện UPCoM-Index cũng chỉ giảm chưa đầy 1% giá trị.
Phần 3: Ảnh hưởng của hệ thống Ngân hàng thương mại tới hoạt động của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính bậc cao, là sản phẩm của nền kinh tế thị trường phát triển. Để thị trường chứng khoán có thể hoạt động minh bạch, hiệu quả và an toàn, không thể thiếu được các tổ chức tài chính trung gian trong đó phải kể đến đầu tiên vai trò của ngân hàng thương mại mà đại diện là các công ty chứng khoán thuộc sở hữu của ngân hàng đó. Nhờ các công ty chứng khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu được lưu thông tấp nập trên thị trường, qua đó một lượng vốn nhàn rỗi được đưa vào đầu tư cho phát triển kinh tế từ những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng.
Nói đến vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán có thể đến các khía cạnh sau: về hàng hoá, về tổ chức trung gian, về thông tin , về sự điều tiết cung cầu và về các định chế tài chính trên thị trường. Đó là những yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự phát triển của một thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Thông qua việc phân tích vai trò của ngân hàng thương mại đến các yếu tố trên của th