Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước và là
một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó. Do vậy, thuế là một
khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu chủ yếu
cho ngân sách Nhà nước mà trong đó thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh chiếm tỷ trọng cao trong Ngân sách Nhà nước. Phải quản lý thu thuế đối với
khu vực kinh tế NQD như thế nào? Đó là một câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những
giải pháp.
Thực hiện công cuộc đổi mới các thành phần kinh tế NQD hình thành và phát triển
góp phần quan trọng và việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế, xã hội do
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, VII, VIII đề ra. Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ IX đã xác định “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế pháp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thầncao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh
XHCN, dân chủ văn minh”. Để đạt được mục tiêu này cần phải sử dụng các giải
pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở
nước ta hiện nay. Theo xu hướng phát triển kinhtế của các nước trên thế giới, nên
kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh
tế trong đó có 5 thành phần kinh tế cơ bản đựơc phân tích trong Kinh tế Chính trị
Mác-Lênin
Nền kinh tế Việt nam không nằm ngoài sự chi phối của quy luật khách quan của
một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường. Có thể phân
chia nền kinh tế thành hai khu vực. Kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Trong đó khu vực kinh tế trong nước lại chia thành hai khu vực là khu
vực Kinh tế Nhà nước và khu vực Kinh tế Ngoài quốc doanh.
115 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2218 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp hoàn thiện công tác hoàn thuế của Bộ tài chính đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước và là
một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó. Do vậy, thuế là một
khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu chủ yếu
cho ngân sách Nhà nước mà trong đó thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh chiếm tỷ trọng cao trong Ngân sách Nhà nước. Phải quản lý thu thuế đối với
khu vực kinh tế NQD như thế nào? Đó là một câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những
giải pháp.
Thực hiện công cuộc đổi mới các thành phần kinh tế NQD hình thành và phát triển
góp phần quan trọng và việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế, xã hội do
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, VII, VIII đề ra. Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ IX đã xác định “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế pháp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh
XHCN, dân chủ văn minh”. Để đạt được mục tiêu này cần phải sử dụng các giải
pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở
nước ta hiện nay. Theo xu hướng phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, nên
kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh
tế trong đó có 5 thành phần kinh tế cơ bản đựơc phân tích trong Kinh tế Chính trị
Mác- Lênin
Nền kinh tế Việt nam không nằm ngoài sự chi phối của quy luật khách quan của
một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường.. Có thể phân
chia nền kinh tế thành hai khu vực. Kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Trong đó khu vực kinh tế trong nước lại chia thành hai khu vực là khu
vực Kinh tế Nhà nước và khu vực Kinh tế Ngoài quốc doanh.
Trong phạm vi của luận văn này chỉ đề cập đến các giải pháp để hoàn thiện công tác
quản lý thu thuế NQD, mà hẹp hơn là đối với 2 thành phần kinh tế là tư bản tư nhân
và kinh tế cá thể tiểu chủ, cụ thể là khu vực kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp
NQD và các hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp.
Lý do em chọn đề tài này là do khu vực kinh tế có phạm vi rộng nguồn thu lớn cho
Ngân sách Nhà nước, đồng thời 2 thành phần kinh tế này mới được Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI chính thức thừa nhận tồn tại khách quan trong thời
kỳ quá độ.
Luận văn được kết cấu như sau:
Chương I: Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nội dung của quản lý thu thuế đối
với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương II: Thực trạng công tác công tác hoàn thuế của Bộ Tài Chính đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác hoàn thuế của Bộ Tài Chính đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay.
Chương I
khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh và Nội dung của quản lý thu thuế đối với khu
vực kinh tế Ngoài quốc doanh
I. Đặc điểm của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh
1.Sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh
Thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ trải qua
một thời gian dài trong lịch sử. Trong suốt thời kỳ đó vẫn tồn tại các thành phần
kinh tế phi CNXH cạnh tranh gay gắt với thành phần kinh tế CNXH. Nhà nước
XHCN có vai trò to lớn trong việc làm cho các thành phần kinh tế XHCN ngày
càng phát triển và chiếm ưu thế, đảm bảo thắng lợi của CNXH.
Vậy quá độ đi lên CNXH bỏ qua phát triển TBCN không thể không quan tâm đến
sự tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của các thành phần kinh tế khác trong đó
có các thành phần kinh tế của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD). Nước ta
quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế còn chưa
mạnh, cơ sở vật chất còn nghèo nàn không đồng nhất giữa các ngành các vùng,
trình độ quản lý kinh tế còn thấp kém lại vừa qua khỏi chiến tranh. Mâu thuẫn giữa
nhu cầu cải tiến đời sống nhân dân với khả năng của sức sản xuất đang hết sức gay
gắt. sự lựa chọn có phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó có kinh tế NQD hay
không có tính chất quyết định. Tuy nhiên chấp nhận sự tồn tại của kinh tế NQD
không có nghĩa là để quan hệ sản xuất TBCN xác lập thống trị xã hội mà chỉ để
quan hệ sản xuất tồn tại phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự
phát triển của các lực lượng sản xuất, tăng nhanh năng xuất lao động, tăng trưởng
kinh tế. Do đó bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất chứ không có nghĩa xoá bỏ hoàn toàn kinh tế NQD. Nhưng muốn quan
hệ sản xuất TBCN không trở thành thống trị trong nền kinh tế của xã hội thì không
phải bằng con đường bóp nghẹt như đã làm trước đây, mà phải bằng cách xoá bỏ
dần dần bằng sự tác động của các nhân tố khác trong đó kinh tế nông nghiệp là quan
trọng nhất.
Vậy sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ đã
được khẳng định và nó tiếp tục phát triển trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD
là thành phần kinh tế không thể thiếu được và đóng vai trò ngày càng quan trọng
đối với nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nước ta đang trong quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, một số định kiến xã hội trước đây đối với khu vực kinh
tế NQD vẫn còn khá nặng nề. Khuôn khổ pháp luật để phát triển kinh tế NQD đang
xây dựng, chưa hoàn chỉnh. Song từ khi có Luật Doanh nghiệp (DN) có hiệu lực,
môi trường kinh doanh đã bước đầu được cải thiện, các loại giấy phép bất hợp lý đã
được xoá bỏ, nhiều doanh ngiệp đã phát huy được tính chủ động sáng tạo, tận dụng
được hết năng lực vốn có và tăng vốn đầu tư, mở rộng địa bàn để phát triển sản
xuất, kinh doanh...
Vậy định hướng đi lên XHCN, bỏ qua chế độ TBCN tất yếu khách quan phải
trải qua thời kỳ quá độ bên cạnh đó khẳng định sự tồn tại tất yếu khách quan của
kinh tế NQD và xu hướng nền kinh tế này phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh
tế của đất nước trong thời nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế
Khu vực kinh tế NQD bao gồm các doanh nghiệp NQD (Công ty TNHH, công ty
Cổ phần, công ty Hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và các hộ cá nhân có hoạt động
sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là thành phần kinh
tế không thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ, tương xứng với tiềm năng
và đóng góp xứng đáng vào sự tồn tại vào sự phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách, điều kiện thuận lợi để
khu vực này phát huy được vai trò của mình trong tình hình kinh tế hiện nay.
2.1. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần làm tăng của cải vật chất cho xã hội,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nước ta là nước có nền kinh tế đang trên đà phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần do vậy mục tiêu phát triển kinh tế là hàng đầu. Khu vực kinh tế
NQD là khu vực có nhiều đặc điểm thuận lợi cho quá trình làm tăng của cải vật chất
cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như là: khu vực thu hút nhiều lao động, đối
tượng hoạt động rộng tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế ở mọi nơi trong nước
rút ngắn khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, đồng thời góp phần
khai thác những tiềm năng to lớn của nền kinh tế như tài nguyên, sức lao động, thị
trường...mà vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả. Bên cạnh đó do đặc thù rất
linh hoạt, nhanh nhậy trong sản xuất để thu lợi nhuận cao nhất nên khu vực này có
khả năng phát huy nội lực, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của
thị trường. Vậy khu vực kinh tế NQD là khu vực có vai trò hết sức quan trọng đồng
thời là khu vực góp phần vào việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế do
Nhà nước đề ra.
2.2. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động
Nước ta là nước có dân số hơn 80 triệu dân, do đó đối tượng lao động là rất lớn.
Vấn đề thất nghiệp được đặt ra cần được giải quyết. Trong khi khu vực kinh tế Nhà
nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi lao động phải có
văn hóa, trình độ kỹ thuật nhất định thì mới có thể làm việc trong khu vực trên dẫn
đến một khối lượng lớn lao động đang ở tuổi lao động không thể làm việc ở trong
hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là so với 2 khu vực trên thì khu vực kinh
tế NQD có vai trò thu hút nhiều thành phần lao động, từ những lao động có trình độ
cao đến những lao động thủ công, từ những hợp đồng ngắn hạn đến những hợp
đồng dài hạn, theo mùa vụ hoặc theo thời gian nhất định... Do đó khu vực này góp
phần giải quyết thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
2.3. Khu vực kinh tế NQD phát triển tạo cho ngân sách có nguồn thu ổn định
và ngày càng tăng
Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế NQD mới
đúng bản chất là “thuế”. Vì khác với các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước không
phải chủ sở hữu tư liệu sản xuất, Nhà nước thu thuế của khu vực này mà không phải
đầu tư trực tiếp vào khu vực này. Nguồn thu từ khu vực này rất lớn ngày càng tăng
và được dùng chủ yếu để đầu tư vào các ngành nghề kinh tế mũi nhọn, xây dựng cơ
sở hạ tầng, hỗ trợ các ngành kinh tế yếu kém...đồng thời khu vực này còn tham gia
đóng góp tài chính cho đất nước nhiều hơn nữa thông qua các hoạt động tự nguyện
hưởng ứng các phong trào do Nhà nước, đoàn thể phát động như ủng hộ đồng bào
bị lũ lụt, thương binh, gia đình liệt sĩ, xây dựng trường học, đường xá đóng góp vào
các quỹ an ninh, đền ơn đáp nghĩa....Vậy khu vực kinh tế NQD có vai trò điều hoà
thu nhập và đóng góp vào ngân sách Nhà nước rất lớn.
2.4. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần tăng vốn đầu tư cho xã hội
Khu vực này tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều tiềm năng cho
sự phát triển của các ngân hàng ở nước ta do sự đổi mới kinh tế, nhờ chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần nên khu vực NQD đã hình thành và huy động
một lượng vốn đầu tư lớn cho xã hội. Đây là một nguồn vốn quan trọng, song khai
thác chưa hiệu quả. Bên cạnh đó khu vực kinh tế NQD càng phát triển thì nhu cầu
về vốn ngày càng gia tăng và có mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng, đóng góp
vào sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng trong công tác huy động vốn.
2.5. Ngoài những vai trò trực tiếp nêu trên, khu vực kinh tế NQD tồn tại và phát
triển còn có tác dụng trên nhiều mặt sau
- Khu vực NQD phát triển thoả mãn một phần nhu cầu tiêu dùng xã hội, giúp cho
Nhà nước trong điều kiện vốn còn hạn hẹp, có thể tập trung đầu tư vào những ngành
nghề mũi nhọn, có tác dụng đến toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội, tránh đầu tư
phân tán, dàn trải...Thực tiễn cho thấy có khu vực này nhiều ngành nghề, mặt hàng
và lĩnh vực kinh doanh Nhà nước không cần phải đầu tư hoặc chỉ đầu tư có hạn còn
về cơ bản khu vực kinh tế NQD đã đảm đương các chức năng bán lẻ các mặt hàng
tiêu dùng và tổ chức các dịch vụ tiêu dùng cho xã hội, đặc biệt ở địa bàn nông thôn
và miền núi.
- Khu vực kinh tế NQD tồn tại và phát triển góp phần thúc đẩy sự hình thành và
phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường, thúc đẩy
kinh tế Nhà nước tăng cường hạch toán kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao
năng lực sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Trước đây trong điều kiện chỉ có kinh tế
quốc doanh và kinh tế hợp tác, sản phẩm hàng hóa dù sản xuất ra với bất kỳ chất
lượng nào, giá cả ra sao đều được tiêu thụ. Nhưng từ khi có kinh tế NQD với đặc
điểm tư hữu cao, khu vực này rất linh hoạt năng động với tinh thần trách nhiệm rất
cao trong sản xuất, tìm kiếm thị trường đồng thời luôn tập trung cao độ tinh thần
làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có của mình. Để cạnh tranh với khu vực NQD
thì buộc khu vực kinh tế quốc doanh phải cải tiến hàng hoá sản xuất ra nếu không sẽ
không được thị trường chấp nhận. Bên cạnh sự cạnh tranh đó thì nếu hai khu vực
này không còn hợp tác, thúc đẩy nhau để sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với
chất lượng cao hơn. Vậy hợp tác và cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát
triển của hai khu vực kinh tế này.
- Khu vực kinh tế NQD hình thành và phát triển còn tác động cả vào cơ chế quản lý
làm thay đổi phương thức quản lý sản xuất kinh doanh, thay đổi tác phong, lề lối
làm việc của cán bộ công chức nhà nước, của người lao động.
Trước hết đối với các cơ quan quản lý và cán bộ công chức Nhà nước, phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cơ chế quản lý tập trung bao cấp không còn
thích hợp nữa vì Nhà nước không thể ra lệnh cho các đơn vị kinh tế NQD phải sản
xuất cái gì, phải bán theo giá quy định, mà cho quy luật giá trị, do thị trường do nhu
cầu xã hội quyết định. Với khu vực kinh tế NQD các cơ quan quản lý, công chức
Nhà nước không thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Đây chính
là những tiền đề đặt ra cần phải đổi mới cơ chế quản lý và phải luôn hoàn thiện cơ
chế quản lý của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Phát triển khu vực kinh tế NQD cũng có tác động và làm thay đổi ý thức, tác phong
làm việc của công chức các cơ quan quản lý Nhà nước. Vì khu vực kinh tế NQD
toàn bộ vốn và tài sản thuộc sở hữu tư nhân, họ có quyền quyết định phương án sản
xuất kinh doanh và chỉ chịu sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật. Cán bộ
công chức Nhà nước không có quyền can thiệp vào công việc kinh doanh của họ.
Quan hệ giữa đơn vị kinh tế NQD và công chức Nhà nước là quan hệ bình đẳng
trước pháp luật.
Đối với người lao động và những người quản lý sản xuất kinh doanh, câu hỏi đặt ra
là làm sao thu được lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy phải cải tiến sản xuất, kinh
doanh, nâng cao trình độ chuyên môn để sản xuất ra hàng hoá chất lượng cao, giá
thành hạ.
Quan hệ giữa người bán hàng dịch vụ và người mua hàng dịch vụ được thay đổi từ
quan niệm “bán như cho” thời bao cấp bằng quan niệm coi “khách hàng là thượng
đế” đã được hình thành.
Khu vực kinh tế NQD phát triển tác động cả vào các cơ quan quản lý trong việc
hoạch định chính sách và cải cách hành chính.
Vậy chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó vai trò của khu vực
kinh tế NQD đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và phản ánh đúng quy luật khách
quan của thời kỳ qua độ. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng
6/1991) đã đánh giá: “Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi
nhanh vào cuộc sống chính sách ấy đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân
dân về kinh tế, khơi dậy được nhiều tiềm năng va sức sáng tạo của nhân dân để phát
triển sản xuất, dịch vụ, tạo việc làm và sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy sự hình thành
và phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường”.
Ngoài ra góp phần vào phát triển và tăng trưởng kinh tế ngoài quốc doanh có sự
tham giam tích cực của các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và cải
cách hành chính đồng thời Nhà nước đã ban hành 51 luật, pháp lệnh và các Nghị
định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ điều chỉnh và quản lý mọi hoạt động kinh tế
xã hội của đất nước nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển và lành
mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội.
3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế NQD và các chính sách kinh tế của
Nhà nước
3.1.Quan điểm của Đảng về phát triển khu vực kinh tế NQD
Nước ta đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, các luận điểm của Mác -
Ang ghen - Lênin về thời kỳ quá độ có thể vận dụng vào nước ta vì giai đoạn này là
giai đoạn Nhà nước của giai cấp công nhân đang đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát
triển sức sản xuất, một nhiệm vụ đáng lẽ ra giai cấp tư bản phải làm. Mặt khác do
lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các ngành, các vùng, vì vậy tất
yếu tồn tại kinh tế NQD.
Tuy nhiên để có được nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ không phải là dễ dàng, đã có thời kỳ ta chủ trương sớm xoá bỏ
kinh tế NQD bằng làn sóng quốc doanh hóa, hợp tác hoá, tạo nên bức tường ngăn
cách giữa kinh tế XHCN và kinh tế NQD dẫn đến những hậu quả tiêu cực làm cho
tiềm lực kinh tế của đất nước không được khai thác, lực lượng sản xuất bị lãng phí,
kinh tế bị kìm hãm không phát triển được, đời sống nhân dân gặp khó khăn.
Qua đánh giá quá trình cải tạo các thành phần kinh tế và vận dụng luận điểm của
Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ VI đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới CNXH một cách
vững chắc. Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế.
Điều quan trọng là phải nhận thức và tính toán lại hình thức, và bước đi của quá
trình cải tạo XHCN, làm sao để phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế
trong công cuộc xây dựng đất nước giầu mạnh và cái đích vẫn là CNXH. Từ những
phê bình về những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi
XHCN, từ thực tế của đất nước và vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã đề ra chính sách
sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác. Đại hội đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra nhiệm vụ đẩy mạnh cải tạo XHCN là một nhiệm vụ
thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH với những bước đi
thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất. Cần phải “phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần”.
Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần còn được tiếp tục xác định tại Đại hội
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII, IX. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng
CSVN lần IX khẳng định.
“Kinh tế cá thể ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo
điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức HTX tự nguyện làm
vệ tinh cho các doanh nghiệp phát triển lớn hơn, khuyến khích phát triển kinh tế tư
nhân rộng rãi, trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không
cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế NQD
phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước.”
Ngoài ra còn nêu rõ ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh tế sau:
+ Kinh tế tư bản Nhà nước.
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
+ Kinh tế tư bản tư nhân.
+ Kinh tế Nhà nước.
+ Kinh tế Hợp tác.
Thành phần kinh tế Nhà nước: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà
nước về tư liệu sản xuấtchủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc
về Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm phần khống chế.
Kinh tế quốc doanh hiện nay vẫn giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước
ta, được hình thành do Nhà nước đầu tư xây dựng các cơ sở kinh tế trong tất cả các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, ngoài ra còn được hình thành bằng
con đường quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân.
Thành phần kinh tế tập thể: là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm các
dơn vị kinh tế do nhũng người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh
theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi.
Hợp tác xã là hình thức chủ yếu của nền kinh tế tập thể, bao gồm hợp tác xã nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng. Những loại hình hợp tác
xã trên được hình thành với quy mô và mức độ khác nhau phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, yêu cầu của sản xuất và đời sống. Xu hướng vận động và
phát triển của kinh tế tập thể theo hướng kinh thành những cơ sở, tổ hợp kinh tế
công nông nghiệp để đi lên sản xuất lớn.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa và bóc lột lao động làm thuê, mặc dù không còn nguyên nghĩa như xã
hội cũ. Nó tồn tại trong những ngành có lợi trong quốc kế dân sinh, được Nhà nước
khuyến khích, kiểm soát và hướng theo con đường kinh