Giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng những giải pháp khác để nâng cao chất lượng xét xử về bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm

Khi một chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ chủ thể gây thiệt hại có thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi của mình gây ra. Dưới góc độ pháp luật dân sự, hậu quả pháp lý đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định chi tiết trong BLDS năm 1995, nhưng đến BLDS năm 2005 thì những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hoàn thiện hơn nữa. Cụ thể được quy định tại Điều 604, BLDS 2005. Qua đó có thể hiều trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.

doc22 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2301 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng những giải pháp khác để nâng cao chất lượng xét xử về bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 NỘI DUNG 2 I. Lý luận chung. 2 1. Khái niệm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong luật Dân sự. 2 2. Lý luận về xác định thiệt hại. 2 II. Xác định thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm. 3 1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. 3 2. Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. 11 III. Thực trạng giải quyết các vụ án về bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm. 19 IV. Giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng những giải pháp khác để nâng cao chất lượng xét xử về bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm. 20 KẾT LUẬN 21 (Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………..22 LỜI MỞ ĐẦU Sức khỏe, tính mạng của con người là vô giá, không thể có một đơn vị đo lường nào có thể xác định làm căn cứ xác định thiệt hại về sức khỏe. Tuy nhiên, khi có hành vi trái pháp luật xâm hại tới sức khỏe, tính mạng thì cần thiết phải tính toán đến những thiệt hại thực tế mà người bị thiệt hại phải gánh chịu để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Vậy cơ sở của việc xác định thiệt hại là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế và cách xác định những thiệt hại đó. NỘI DUNG I. Lý luận chung. 1. Khái niệm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong luật Dân sự. Khi một chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ chủ thể gây thiệt hại có thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi của mình gây ra. Dưới góc độ pháp luật dân sự, hậu quả pháp lý đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định chi tiết trong BLDS năm 1995, nhưng đến BLDS năm 2005 thì những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hoàn thiện hơn nữa. Cụ thể được quy định tại Điều 604, BLDS 2005. Qua đó có thể hiều trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. 2. Lý luận về xác định thiệt hại. Xác định thiệt hại có vai trò quan trọng, là cơ sở để ấn định mức độ bồi thường cũng như hình thức bồi thường trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm nói riêng. Xác định thiệt hại chỉ được đặt ra sau khi đã có cơ sở để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do một chủ thể nhất định. Xác định thiệt hại thực chất là việc ước lượng những tổn thất về vật chất, tinh thần đã xảy ra dựa trên cơ sở đó mà ấn định mức bồi thường bằng một khoản tiền nhất định. Xuất phát từ bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm khôi phục các quan hệ xã hội bị xâm phạm - trong khi những tổn thất về tính mạng, sức khỏe, tinh thần là không thể bù đắp được. Cơ sở của việc xác định thiệt hại là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế và cách xác định những thiệt hại đó. Trong hai cơ sở trên thì quy tắc xác định hay còn gọi là cách xác định thiệt hại là phạm trù chủ quan được quy định thành luật dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn nhất định, còn thiệt hại xảy ra là cái tồn tại khách quan. Chính vì vậy, để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của người bị thiệt hại thì các quy tắc xác định cần phải tiến gần đến việc tính toán được một cách toàn bộ những thiệt hại đã xảy ra. Do đó trong quá trình xác định thiệt hại cần phải xem xét những thiệt hại xảy ra một cách khách quan tránh tình trạng xác định cao hơn so với thiệt hại thực tế gây thiệt thòi cho người phải bồi thường hoặc ngược lại, không bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người bị thiệt hại. II. Xác định thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm. 1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Thiệt hại về sức khỏe chính là những giảm sút, tổn thất về mặt thể chất của nạn nhân. Căn cứ theo quy định tại Điều 609 thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại. 2. Người xâm phạm sức khỏe của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó phải gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”. Như chúng ta đã biết thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được xác định theo quy định tại Điều 609 BLDS, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm những chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm suốt của người bị thiệt hại. Theo quy định tại mục II, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ- HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì việc xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm mà người bị gây thiệt hại được bồi thường là những chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của nạn nhân, theo đó được chi tiết hóa gồm các khoản tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại dến bệnh viện, tiền thuốc và các khoản chi phí cho các dịch vụ chiếu, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, truyền máu theo yêu cầu của bác sĩ điều trị. 1.1 Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại. Chi phí hợp lí cho việc cứu chữa là khoản chi phí phù hợp và cần thiết để cứu chữa và phục hồi sức khỏe cho nạn nhân bao gồm: Chi phí cấp cứu, phẫu thuật xét nghiệm; tiền viện phí thuốc men trong thời gian điều trị; tiền khám bệnh, chăm sóc sức khỏe sau khi ra viện; Chí phí hợp lí cho việc đi lại cứu chữa và khám bệnh của nạn nhân. Tất cả những chi phí trên đều được xác định dựa trên cơ sở hóa đơn chứng từ hợp lệ theo chỉ dẫn của Bác sỹ hoặc yêu cầu của bệnh viện, cơ quan trực tiếp cứu chữa cho nạn nhân. Ngoài ra, những trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan việc cứu chữa của nạn nhân cần nhanh chóng mà phải điều trị tại chỗ thì mọi chi phí cũng cần phải có sự xác nhận của chính người trực tiếp cứu chữa. Bên cạnh việc xác định dựa trên cơ sở hóa đơn, chứng từ để đảm bảo tính “hợp lý” của các chi phí này, quá trình xác định còn phải dựa trên sự “cần thiết” của các chi phí. Trường hợp gia đình nạn nhân có điều kiện kinh tế mà yêu cầu chữa trị với chế độ phục vụ đặc biệt, biện pháp điều trị đặc biệt, biện pháp điều trị đặc biệt, sử dụng các loại thuốc cao cấp, đắt tiền trong khi với một chế độ, biện pháp thông thường vẫn đảm bảo được khả năng cứu chữa và phục hồi sức khỏe cho nạn nhân thì chi phí này không được coi là “hợp lý”. Vì vậy, việc xác đinh thiệt hại chỉ tính theo những chi phí cho việc cứu chữa thông thường của loại bệnh hoặc thương tích đó. Những yêu cầu trên nhằm giúp cho việc xác định thiệt hại được thực hiện một cách khách quan và hợp lý. Tránh trường hợp phía người bị hại lợi dụng việc cứu chữa mà gây khó khăn cho người phải bồi thường. Chi phí cho việc bồi thường, phục hồi sức khỏe cho nạn nhân để giúp cho người bị thiệt hại nhanh chóng bình phục, luật đã quy định người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền nhất định gọi là tiền bồi dưỡng cho nạn nhân. Về mức bồi thường: Luật không quy định cụ thể nhưng trên thực tiễn xét xử nhiều vụ án thì việc xác định mức bồi dưỡng căn cứ vào mức độ, tính chất của thương tích cũng như dựa trên mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi nạn nhân đang điều trị thương tích. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xác định khoản tiền bồi dưỡng phù hợp với tính chất của việc nhằm đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ. Theo quy định tại Điều 612 BLDS, thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được xác định: “Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết”. Như vậy, người mất khả năng lao động do bị gây thiệt hại về sức khỏe được nuôi dưỡng suốt đời. Khoản chi phí hợp lý cho việc phục hồi chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị hại. Trong trường hợp người bị hại do xâm phạm sức khỏe mà dẫn đến thương tật thì người gây thiệt hại phải bồi thường khoản chi phí cho việc phục hồi, trợ giúp chức năng như chân giả máy trợ nghe... Tuy nhiên, những chi phí này cũng chỉ được xác định ở mức hợp lý tức là dựa trên cơ sở giá thị trường của công cụ có chất lượng trung bình đủ đảm bảo cho việc sử dụng khôi phục chức năng của nạn nhân. Như vậy, việc xác định thiệt hại kể trên cần đảm bảo tính khách quan và hợp lý. Mọi thiệt hại đưa ra đều phải có cơ sở thực tế và chứng từ, hóa đơn hợp lệ thì mới chấp nhận bồi thường. 1.2 Thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại. Thu nhập thực tế được hiểu là khoản thu nhập chính đáng có thể biết chắc chắn thu được nhưng không thu được do sức khỏe bị xâm hại bao gồm: thu nhập chính và thu nhập phụ thường xuyên. Trên thực tế phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút do sức khỏe bị xâm phạm thường là những thu nhập có được là do lao động như: tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp. Đây được coi là một phần thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bởi chính việc gây thiệt hại cho sức khỏe nạn nhân dẫn tới hậu quả người đó mất đi khoản thu nhập mà đáng lẽ họ được hưởng nếu không có sự kiện gây thiệt hại Theo Nghị quyết số 03/2006/NĐ-HĐTP ngày 8 tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chúng ta thấy rằng: Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó. Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau: - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại. - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại. - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại. - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS. Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau: Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu. Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định như đã trình bày ở phần trên. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất. 1.3 Xác định chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị. Đây cũng được coi là thiệt hại phát sinh gián tiếp từ sự kiện gây thiệt hại. Vì vậy cần phải xác định để tính vào thiệt hại được bồi thường nhằm đảm bảo quyền lợi cho gia đình người bị hại. Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế. Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau: - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất. - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất. - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. - Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường. 1.4 Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Ngoài những thiệt hại nêu trên, trong trường hợp: “Người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lí cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng”. BLDS và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể thế nào là mất khả năng lao động. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định trong Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề tai nạn lao động thì có thể hiểu mất khả năng lao động là trường hợp người bị thiệt hại có tỷ lệ thương tật từ 81% trở lên. Với tỷ lệ thương tật như vậy thì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt hàng ngày và thậm chí nạn nhân không thể tự mình phục vụ những nhu cầu thiết yếu cho bản thân. Vì vậy, trong trường hợp cần có người thường xuyên chăm sóc thì người gây thiệt hại phải bồi thường những chi phí hợp lí cho việc chăm sóc đó như tiền công chăm sóc cho người chăm sóc nạn nhân. Ngoài ra, do những tổn hại về sức khỏe mà nạn nhân không còn khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân, gia đình. Đây là một khó khăn và thiệt thòi rất lớn không chỉ đối với bản thân nạn nhân mà còn cho cả những người đang được nạn nhân cấp dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo cho cuộc sống bình thường của những người này, bên cạnh việc bồi thường cho những thiệt hại khác thì người gây thiệt hại còn phải thực hiện cấp dưỡng hàng tháng cho họ. 1.5 Xác định thiệt hại về tinh thần. Khoản 2 Điều 609 BLDS quy định: “Người xâm phạm sức khỏe của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”. Tổn thất về tinh thần trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm được hiểu là sự đau đớn về thể xác, sự lo lắng suy sụp về tinh thần của người bị hại đối với tình trạng sức khỏe của mình. Khác với những thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần là những tổn thất trừu tượng không thể xác định được một cách chính xác. Vì vậy, luật không quy định một khoản bồi thường cố định mà tùy vào từng trường hợp cụ thể Tòa án xác đinh mức bồi thường cho phù hợp, căn cứ vào một số yếu tố sau đây: - Dựa vào mức độ, tính chất thương tích của nạn nhân. Thông thường sự thiệt hại về sức khỏe càng nghiêm trọng thì mức độ tổn thất về tinh thần càng lớn. Ngược lại đối với những thương tích nhỏ, ảnh hưởng không lớn đến sức khỏe cũng như khả năng lao động….thì sự tổn thất về tinh thần thường không đáng kể hoặc khồng cần đặt ra. - Dựa vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế cũng như vai trò của người bị hại trong gia đình. Trường hợp gia đình nạn nhân rất khó khăn về kinh tế mà nạn nhân lại đóng vai trò trụ cột trong gia đình, là người có thu nhập củ yếu thì thiệt hại xảy ra sẽ gây áp lực lớn về tinh thần đối với nạn nhân hơn là trường hợp nạn nhân không có nghề nghiệp và sống dựa vào gia đình. - Việc xác định tổn thất về tinh thần còn phải dựa vào mối quan hệ giữa tính chất của những thương tích và đặc điểm nhân thân của người bị thiệt hại như: độ tuổi, giới tính, vị trí xã hội, nghề nghiệp…Bởi những yếu tố này sẽ phản ánh sự tác động tích cực trực tiếp của những thiệt hại về vật chất đối với đời sống tinh thần nội tâm của họ. Ví dụ: như một cầu thủ bóng đá bị gây thương tích ở chân và làm cho đôi chân bị tật và không đá bóng được nữa thì sự đau đớn sẽ lớn hơn trường hợp người bình thường cùng tình huống. Nhìn chung, những tổn thất về tinh thần là hoàn toàn trừu tượng và việc xác định nó chỉ mang tính chất tương đối trên cơ sở xem xét một cách toàn diện vấn đề và ra quyết định cho hợp lý. Như vậy, sức khỏe con người là vốn quý và thiệt hại về sức khỏe, thể chất là không thể bồi thường được. Tuy nhiên, những thiệt hại phát sinh từ việc sức khỏe bị xâm phạm chỉ có thể xác định được và người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bù đắp những tổn thất, mất mát đó. 2. Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. Tính mạng là thứ quý giá nhất của mỗi con người. Khi tính mạng của một người bị xâm phạm sẽ để lại mất mát rất lớn đối với chính họ và những người thân của họ nên khó có thể định giá được thành tiền để bồi thường. Thế nhưng, việc bồi thường bằng tiền cũng là một biện pháp để khắc phục hậu quả và bù đắp những tổn thất về vật chất cũng như tinh thần cho người bị thiệt hại và gia đình họ. Về mặt dân sự, người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân và những tổn thất về tinh thần và vật chất phát sinh từ những hành vi gây thiệt hại. Tuy nhiên, việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm để quyết định mức bồi thường là không đơn giản. Theo quy định tại Điều 610 BLDS thì thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: ● Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; ● Chi phí hợp lý cho viêc mai táng; ● Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. ● Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại … 2.1 Chí phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết. 2.1.1 Chi phí cho việc cứu chữa. Cũng giống như trường hợp sức khỏe bị xâm phạm, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa người bị hại trước khi chết là những khoản mà người gây thiệt hại phải bỏ ra để cứu chữa bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết. Theo đó, chi phí phù hợp và cần thiết để cứu chữa c
Luận văn liên quan