Hiện nay trên thế giới, nghề nuôi tôm là một trong những nghề nuôi phát triển nhất. Các quốc gia đứng đầu về sản lượng tôm nuôi gồm Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Việt Nam, , nghề nuôi tôm đem lại lợi nhuận cao, góp phần nâng cao đời sống cho người dân, phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, .,hạn chế sự khai thác quá mức tài nguyên sinh vật biển.
Ở Việt Nam, tiềm năng nuôi tôm là rất lớn. Nước ta có 3260 km bờ biển, 12 đầm phá và các eo vịnh, 112 cửa sông gạch, hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven biển là những nơi rất thuận lợi cho việc nuôi trồng các loại thủy sản lợ mặn. Hiện nay, nuôi Tôm Sú ở Đồng Bằng Sông Cửu Long dẫn đầu về sản lượng tôm nuôi . Theo thống kê của bộ thủy sản, năm 1990, ở Việt Nam có 187.000 ha mặt nước nuôi tôm, sản lượng đạt được 31.000 tấn. đến năm 1995, diện tích mặt nước nuôi tôm đã tăng lên 260.000 ha và đạt sản lượng 52000 tấn Con giống tự nhiên đã không còn đáp ứng đủ nhu cầu của người nuôi nữa và hàng loạt các trại sản xuất giống được thành lập. Theo thống kê hàng năm các trại trong nước cung cấp khoảng 15-17 tỷ PL15, riêng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có 1546 trại, sản xuất khoảng 8,5 tỷ tôm giống. Dự kiến đến năm 2010 nhu cầu của người nuôi là 25 tỷ PL. . Mặt khác do việc nuôi tôm ven biển phát triển một cách ào ạt không có quy hoạch, nuôi với mật độ cao, con giống kém chất lượng đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng làm cho tôm chết ở nhiều nơi (TRÀ VINH, BẠC LIÊU, CÀ MAU ) gây thiệt hại kinh tế nặng nề. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của tôm Thẻ Chân Trắng là đối tượng nuôi mới vốn ít bệnh, thời gian nuôi ngắn, giá thành rẻ hơn làm cho nghề nuôi tôm sú đứng trước nguy cơ sụp đổ. Do đó, việc sản xuất ra con giống sạch bệnh, chất lượng cao và đáp ứng đủ nhu cầu người nuôi là một yêu cầu cấp bách và cần thiết.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, trường Đại Học Cần Thơ đã tiến hành chuyển giao kỹ thuật sản xuất giống Tôm Càng Xanh và Tôm Sú cho nhiều địa phương và tổ chức “thực tập giáo trình chuyên môn nước lợ” cho sinh viên của trường nhằm trang bị những kiến thức cơ bản và kỹ năng thực tiễn về quy trình sản xuất giống tôm. Đồng thời kết hợp với các chuyến tham quan thực tế các địa phương lân cận thành phố cần thơ để nâng cao hiểu biết, nắm bắt được tình hình nuôi và sản xuất giống của vùng. Từ đó mà có định hướng nghề phù hợp.
Qua chuyến thực tập vừa qua được sự chỉ dẫn tận tình của quý thầy cô đã giúp em hoàn thành chuyến đi thực tập và làm chuyên đề này. Do đây là lần đầu tiên tiếp cận với thực tiễn sản xuất giống, kinh nghiệm còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến, bổ sung của quý thầy cô và các bạn để báo cáo này được hoàn thiện hơn.
26 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2908 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Thực tập chuyên môn nước lợ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: GIỚI THIỆU
Hiện nay trên thế giới, nghề nuôi tôm là một trong những nghề nuôi phát triển nhất. Các quốc gia đứng đầu về sản lượng tôm nuôi gồm Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Việt Nam,…, nghề nuôi tôm đem lại lợi nhuận cao, góp phần nâng cao đời sống cho người dân, phát triển kinh tế, giải quyết việc làm,….,hạn chế sự khai thác quá mức tài nguyên sinh vật biển.
Ở Việt Nam, tiềm năng nuôi tôm là rất lớn. Nước ta có 3260 km bờ biển, 12 đầm phá và các eo vịnh, 112 cửa sông gạch, hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven biển là những nơi rất thuận lợi cho việc nuôi trồng các loại thủy sản lợ mặn. Hiện nay, nuôi Tôm Sú ở Đồng Bằng Sông Cửu Long dẫn đầu về sản lượng tôm nuôi . Theo thống kê của bộ thủy sản, năm 1990, ở Việt Nam có 187.000 ha mặt nước nuôi tôm, sản lượng đạt được 31.000 tấn. đến năm 1995, diện tích mặt nước nuôi tôm đã tăng lên 260.000 ha và đạt sản lượng 52000 tấn…Con giống tự nhiên đã không còn đáp ứng đủ nhu cầu của người nuôi nữa và hàng loạt các trại sản xuất giống được thành lập. Theo thống kê hàng năm các trại trong nước cung cấp khoảng 15-17 tỷ PL15, riêng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có 1546 trại, sản xuất khoảng 8,5 tỷ tôm giống. Dự kiến đến năm 2010 nhu cầu của người nuôi là 25 tỷ PL. . Mặt khác do việc nuôi tôm ven biển phát triển một cách ào ạt không có quy hoạch, nuôi với mật độ cao, con giống kém chất lượng… đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng làm cho tôm chết ở nhiều nơi (TRÀ VINH, BẠC LIÊU, CÀ MAU…) gây thiệt hại kinh tế nặng nề. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của tôm Thẻ Chân Trắng là đối tượng nuôi mới vốn ít bệnh, thời gian nuôi ngắn, giá thành rẻ hơn làm cho nghề nuôi tôm sú đứng trước nguy cơ sụp đổ. Do đó, việc sản xuất ra con giống sạch bệnh, chất lượng cao và đáp ứng đủ nhu cầu người nuôi là một yêu cầu cấp bách và cần thiết.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, trường Đại Học Cần Thơ đã tiến hành chuyển giao kỹ thuật sản xuất giống Tôm Càng Xanh và Tôm Sú cho nhiều địa phương và tổ chức “thực tập giáo trình chuyên môn nước lợ” cho sinh viên của trường nhằm trang bị những kiến thức cơ bản và kỹ năng thực tiễn về quy trình sản xuất giống tôm. Đồng thời kết hợp với các chuyến tham quan thực tế các địa phương lân cận thành phố cần thơ để nâng cao hiểu biết, nắm bắt được tình hình nuôi và sản xuất giống của vùng. Từ đó mà có định hướng nghề phù hợp.
Qua chuyến thực tập vừa qua được sự chỉ dẫn tận tình của quý thầy cô đã giúp em hoàn thành chuyến đi thực tập và làm chuyên đề này. Do đây là lần đầu tiên tiếp cận với thực tiễn sản xuất giống, kinh nghiệm còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến, bổ sung của quý thầy cô và các bạn để báo cáo này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
PHẦN II : LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
TÔM SÚ :a. Hình thái, phân loại, phân bố :
Tôm sú được định loại như sau ;
Ngành : Arthropoda
Ngành phụ : Crustacea
Lớp : Malacostraca
Bộ : Decapoda
Họ chung : penaeidea
Giống : Penaeus
Loài : Monodon
Tên loài : Penaeus monodon
1.Phân bố:
Phạm vi phân bố của tôm sú khá rộng, từ Ấn Độ Dương qua hướng Nhật Bản, Đài Loan, Phía Đông Tahiti, Phía Nam Châu Úc và phía Tây Châu Phi (Racek – 1955, Holthuis và Rosa – 1965, Motoh – 1981, 1985).
Nhìn chung tôm sú phân bố từ kinh độ 30E đến 155E từ vĩ độ 35N tới 35S xung quanh các nước vùng xích đạo, đặc biệt là Indonesia, Malaisia, Philippines và Việt Nam.
Tôm bột, tôm giống và tôm gần trưởng thành có tập tính sống gần bờ biển và rừng gập mặn ven bờ. Khi tôm trưởng thành di chuyển xa bờ vì chúng thích sống vùng nước sâu hơn.
Cấu tạo:
Nhìn từ bên ngoài, tôm gồm các bộ phận sau:
Chủy: dạng như lưỡi kiếm, cứng, có răng cưa. Với tôm sú, phía trên chủy có 7-8 răng và dưới chủy có 3 răng.
Mũi khứu giác và râu: cơ quan nhận biết và giữ thăng bằng cho tôm
3 cặp chân hàm: lấy thức ăn và bơi lội
5 cặp chân ngực: lấy thức ăn và bò
Cặp chân bụng: bơi
Đuôi: có 1 cặp chân đuôi để tôm có thể nhảy xa, điều chỉnh bơi lên cao hay xuống thấp.
Bộ phận sinh dục (nằm dưới bụng)
Khi tôm trưởng thành phân biệt rõ đực cái, thông qua cơ quan sinh dục phụ bên ngoài:
Con đực: cơ quan sinh dục chính của con đực nằm ở phía trong phần đầu ngực, bên ngoài có cơ quan giao phối phụ nằm ở nhánh ngoài đôi chân ngực thứ 2, lỗ sinh dục đực mở ra hốc háng đôi chân ngực thứ 5. Tinh trùng thuộc dạng chứa trong túi.
Con cái: Buồng trứng nằm dọc theo mặt lưng phía trên, hai ống dẫn trứng mở ra ở khớp háng đôi chân ngực thứ 3. Bộ phận chứa túi tinh gồm 2 tấm phồng lên ở đôi chân ngực thứ 4 và thứ 5 dưới bụng tôm
Chu ký sống của tôm sú:
Các giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm sú bao gồm: Nauplius, Zoae và Mysis
Nauplius gồm 6 giai đoạn, các Nauplius bơi từng đoạn ngắn rồi nghĩ. Ấu trùng có tập tính trôi nổi hướng quang dinh dưỡng bằng noãn hoàng.
Zoae gồm 3 giai đoạn, các Zoae bơi liên tục gần mặt nước ăn thực vật phiêu sinh.
Mysis gồm 3 giai đoạn:
giai đoạn Mysis 1 có cơ thể kéo dài, chân ngực phát triển, telson xuất hiện chưa có chân bụng.
Mysis 2 có mần chân bụng nhưng chưa phân đốt.
Mysis 3 có chân bụng phát triển dài gấp đôi so với giai đoạn Mysis 2, chân bụng có 2 đốt.
Ấu trùng Mysis dần dần chuyển sang ăn động vật phiêu sinh, bởi ngữa và giật về phía sau.
* Sự phát triển của hậu ấu trùng:
Sau giai đoạn Mysis 3 ấu trùng chuyển sang giai đoạn hậu ấu trùng (tôm bột – Postlarvae) và có hình dạng tương tự như tôm trưởng thành. Postlarvae đầu tiên có chiều dài khoảng 4,5mm các chân bụng có nhiều lông tơ.
Postlarvae giai đoạn đầu một số còn tập tính bơi trong cột nước phần lớn bắt đầu sống đáy. Từ Post 6 tôm chủ yếu sống đáy.
* Sau giai đoạn Postlarvae chuyển thành giai đoạn tiền trưởng thành và cuối cùng là giai đoạn trưởng thành.
Đặc điểm sinh sản:
Tuổi thành thục của tôm cái và tôm đực từ tháng 8 trở đi.
Hormone điều khiển sự thành thục sinh dục được sản xuất bởi tế bào thần kinh trong cơ quan X của cuống mắt, vận chuyển tới tuyến giáp sinap đưa vào kho dự trữ và khi cần thì tiết ra.
Sự thành thục sinh dục của tôm sú thông qua tác động của tuyến nội tiết khi cắt mắt tức là thúc đẩy chu kỳ lột xác, đem lại sự thành thục mau chóng hơn.
Số lượng trứng đẻ của tôm cái nhiều hay ít phụ thuộc vào chất lượng buồng trứng và trọng lượng cá thể.Trọng lượng lớn cho trứng nhiều hơn.
Khi con cái thành thục ngoài tự nhiên có trọng lượng tự 100 – 300 gam cho 300000 – 12000000 trứng. Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm (thường từ 22 giờ đến 2 giờ). Trứng sau khi đẻ 14 – 15 giờ ở nhiệt độ 27 – 280C sẽ trở thành ấu trùng. Tôm sú đẻ quanh năm nhưng tập trung vào hai thời kỳ chính tháng 3 – 4 và tháng 7 – 10.
Tập tính ăn:
Tôm sú là loài ăn tạp, thích các động vật sống và di chuyển chậm hơn là xác thối rửa hay mảnh vụn hữu cơ, đặc biệt ưa ăn giáp xác, thực vật dưới nước, mảnh vụn hữu cơ, giun nhiều tơ, loại hai mảnh vỏ, côn trùng.
Tôm sú ngoài tự nhiên ăn 85% là giáp xác, cua nhỏ, động vật nhuyễn thể hai mảnh vỏ còn lại 15% là cá, giun nhiều tơ, thủy sinh vật, mảnh vụn hữu cơ, cát bùn.
Tăng trưởng:
Trong quá trình tăng trưởng, khi trọng lượng và kích thước tăng lên mức độ nhất định, tôm phải lột bỏ lớp vỏ cũ để lớn lên.
Sự lột xác thường xảy ra vào ban đêm. Sự lột xác đi đôi với việc tăng thể trọng, cũng có trường hợp lột xác nhưng không tăng thể trọng.
Khi quan sát tôm nuôi trong bể, hiện tượng lột xác xảy ra như sau
Lớp biểu bì giữa khớp đầu ngực và phần bụng nứt ra, các phần phụ của đầu ngực rút ra trước, theo sau là phần bụng và các phần phụ phía sau, rút ra khỏi lớp vỏ cứng, với động tác uốn cong mình toàn cơ thể
. Lớp vỏ mới mềm sẽ cứng lại sau 1-2 giờ với tôm nhỏ, 1-2 ngày đối với tôm lớn.
Tôm sau khi mới lột xác, vỏ còn mềm nên rất nhạy cảm với môi trường sống thay đổi đột ngột.
Trong quá trình nuôi tôm, thông qua hiện tượng này, có thể điều chỉnh môi trường nuôi kịp thời.
Hormone hạn chế sự lột xác lột xác (MIH, molt - inhibiting hormone) được tiết ra do các tế bào trong cơ quan của cuống mắt, truyền theo sợi trục tuyến xoang, chúng tích luỹ lại và chuyển vào trong máu, nhằm kiểm tra chặt chẽ sự lột xác.
Các yếu tố bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn, điều này có ảnh hưởng tới tôm đang lột xác.
B. TÔM CÀNG XANH
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM CÀNG XANH.
Vị trí phân loại:
Ngành: Arthropoda.
Lớp: Crustacea
Lớp phụ: Malacostraca
Bộ: Decapoda
Họ: Palaemonidae.
Giống: Macrobrachium.
Loài: Macrobrachium rosenbergii.
1. Đặc điểm về hình thái
Dựa vào hình dạng và màu sắc để phân biệt giữa tôm càng và các nhóm tôm khác:
TCX có cơ thể thon dài, đối xứng hai bên.
Con trưởng thành thường có màu xanh dễ nhận, đôi khi có màu nâu nhạt.
Cấu tạo cơ thể gồm :Phần đầu ngực phiá trước và phần bụng phía sau.
Phần đầu ngực lớn, có dạng hơi giống hình trụ, gồm phần đầu với 5 đốt gần nhau, mang 5 đôi phụ bộ và phần ngực với 8 đốt liền nhau mang 8 đôi phụ bộ. Phần đầu ngực được bao dưới tấm vỏ dày gọi là giáp đầu ngực.
Phần bụng gồm có 6 đốt có thể cử động và một đốt đuôi. Mỗi đốt mang một đôi phụ bộ gọi là chân bơi. Mỗi đốt bụng có tấm vỏ bao. Tấm vỏ phía trước xếp chồng lên tấm vỏ phía sau. Tuy nhiên tấm vỏ của đốt bụng thứ hai phủ lên cả hai tấm vỏ trước và sau nó. Các đốt bụng hơi tròn trên mặt lưng và dẹp hai bên. Cơ thể có dạng hơi cong như hình dấu phẩy, to ở phần đầu và thon nhỏ về phái sau.
Ở tôm nhỏ có màu trong sáng. Trên giáp đầu ngực có những sọc xanh đen dọc hai bên.
Tôm trưởng thành có những vệt màu xanh hơi sậm ngang lưng xen kẽ với màu trắng trong của cơ thể.
Tôm có chủy dài vượt vảy râu, uống cong lên từ đoạn giữa chủy, gốc chủy ở nơi hốc mắt nhô cao lên thành mào
Chủy có 11-16 răng trên chủy (2-3 răng sau hốc mắt) và 10-15 răng dưới chủy.
Các phụ bộ có hình dạng, kích cỡ và chức năng khác nhau với hai đôi râu có chức năng xúc giác, một đôi hàm lớn, hai đôi hàm nhỏ và ba đôi chân hàm có chức năng giữ và nghiền mồi, năm đôi chân ngực có chức năng để bò, năm đôi chân ngực để bơi và một đôi chân đuôi có chức năng như bánh lái. Hai đôi chân ngực đầu tiên của tôm chuyển hoá thành hai đôi càng, đôi càng thứ hai to dùng để bắt mồi và tự vệ.
Đặc điểm về kích cỡ, màu sắc, hình dạng và các gai trên đôi càng sẽ thay đổi theo từng giai đoạn thành thục của tôm, nhất là ở tôm đực.
Quá trình thay đổi được thể hiện qua các giai đoạn như: tôm nhỏ, tôm càng cam nhạt, tôm càng cam đậm, tôm càng cam đậm chuyển tiếp càng xanh, tôm càng xanh nhạt, tôm càng xanh đậm và tôm già.
2. Sự phân bố:
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy TCX phân bố ở tất cả các thủy vực nước ngọt (đầm, hồ, ao, sông) và các thủy vực nước lợ của nhiều vùng trên thế giới (Nguyễn Việt Thắng, 2003).
Môi trường sống của tôm càng xanh đa dạng trong thủy vực nước trong cũng như nước đục (FAO, 1985), phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á và một khu vực khá hẹp của Đông Bắc Á, giới hạn từ Ấn Độ đến phía Đông của nước Úc và đảo Solomon (Arrigon, 1994) như: Thái Lan (De Man, 1879; Lanchester, 1879; Rabanal và Soesaton, 1985), Ấn Độ (Hurbest, 1792; Rabanal và Soesaton, 198), Miến Điện (Handerson, 1893), Singapore, Nhật Bản (Vonmartens 1868), Hồng Kông (Thomson,1937), Philippine, (Castro De Elera, 1895), Indonesia (De Man,1879), Australia (J.roux 1933) và Việt Nam (Rabanal và Soesaton, 1985) và khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, chủ yếu ở các khu vực từ Châu Úc đến New Guinea (Nguyễn Việt Thắng, 2003)
Ở Việt Nam TCX phân bố tự nhiên từ Nha Trang trở vào đến Đồng Bằng Nam Bộ và tập trung chủ yếu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ở các thuỷ vưc có độ mặn 18ppt đôi khi cả 25ppt vẫn thấy tôm xuất hiện
3. Vòng đời và tập tính sống
Theo Ling S.W và Omerica A.B (1962); Nguyễn Thanh Phương (2003), vòng đời TCX được chia thành 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành.
Khi tôm đã trưởng thành, chúng thường sống ở vùng nước ngọt như: sông, rạch, ao hồ…. Cũng chính nơi này sẽ xảy ra quá trình thành thục, phát dục và giao vĩ đẻ trứng. Nhưng khi ôm trứng chúng có xu thế bơi ra vùng nước lợ từ 6-18o/oo, ở đó ấu trùng được nở ra và sống trôi nổi theo kiểu phù du. Sau 11 lần lột xác với 12 giai đoạn biến thái, ấu trùng (Nauplii) biến thành hậu ấu trùng (Post larvae) lúc này tôm con di cư về vùng nước ngọt, sống và lớn lên ở đây.
Ấu trùng có tính hướng quang mạnh, vận động trôi nổi trong nước.
Sang thời kỳ hậu ấu trùng và giai đoạn trưởng thành, tôm có tập tính sống ở đáy, bám vào cây cỏ; giá thể…
Tôm trưởng thành ít hoạt động và thường ẩn náu vào ban ngày và tích cực hoạt động vào ban đêm.
Tôm càng xanh có tập tính ăn thịt lẫn nhau, điều này thể hiện rõ trong nuôi ở mật độ cao hoặc khi bị thiếu thức ăn (Ismael và New, 2000). Vì vậy, việc dùng giá thể tăng chổ ẩn nấp, hạn chế hiện tượng này để nâng cao tỷ lệ sống của tôm đã được đề xuất trong nuôi thương phẩm (Ling, 1969; Fujimuta và Okamoto, 1972; Sandifer và Smith, 1975, 1977, 1983; Faria và Valenti, 1996; Sampaio, 1995; Alston và Sampaio, 2000).
4. Đặc điểm sinh sản
Phân biệt giới tính: dựa vào hình thái ngoài có thể phân biệt được tôm càng xanh đực và cái dễ dàng.
Ở tôm trưởng thành, tôm đực thường có kích thước lớn hơn con cái cùng tuổi.
Đầu ngực tôm đực to hơn và khoang bụng hẹp hơn so với con cái.
Bên cạnh đó, đôi càng thứ hai dài, thô và to hơn.
Tôm đực trưởng thành thường có đôi càng màu xanh dương đậm. Các gốc chân ngực của tôm đực cũng được xếp khít nhau hơn so với tôm cái, cạnh đốt gốc của đôi chân ngực thứ 5 có 2 lỗ sinh dục đực.
Ngoài ra, tôm đực còn có nhánh phụ đực nằm kế nhánh trong của chân bụng thứ hai và điểm cứng ở giữa mặt bụng của đốt bụng thứ nhất.
Tôm cái thường có kích thước nhỏ hơn tôm đực, có phần đầu ngực và đôi càng thon nhỏ.
3 tấm bụng đầu tiên ở tôm cái rộng và dài tạo thành khoang bụng làm buồng ấp trứng. Quá trình nở rộng của các tấm bụng này khi tôm tham gia sinh sản lần đầu tiên và đây chính là đặc điểm quan trọng của tôm cái.
Lỗ sinh dục của con cái nằm ở phần ức, ngay gốc đôi chân ngực thứ 3, có dạng tam giác.
Trên các đốt giữa của các chân bơi còn có nhiều lông tơ hình thành ở thời kỳ lột xác tiền giao vĩ có tác dụng cho trứng bám vào (Nguyễn Thanh Phương, 2003)
Buồng trứng của con cái nằm trên mặt lưng của phần đầu ngực, giữa dạ dày và gan tụy. Khi buồng trứng thành thục sẽ có màu vàng có thể nhìn thấy qua giáp đầu ngực, trải dài từ sau mắt đến đốt đầu của phần bụng. Ống dẫn trứng nối từ buồng trứng ở trước tim chạy dọc hai bên về phía bụng đổ về túi chứa tinh ở đốt gốc của chân ngực thứ ba (Nguyễn Thanh Phương, 2003)
Thành thục, giao vĩ, đẻ và ấp trứng
Trong tự nhiên cũng như trong điều kiện nhân tạo, tôm thành thục và giao vĩ xảy ra hầu như quanh năm.
Mùa đẻ rộ của tôm càng xanh ở đồng bằng Nam Bộ tập trung từ tháng 4 - 6 và từ tháng 8 - 10 (Nguyễn Việt Thắng, 1993, Phạm Văn Tình, 1996; Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2005).
Tôm càng xanh cái thành thục lần đầu tiên ở khoảng 3 - 3,5 tháng kể từ hậu ấu trùng 10 - 15 ngày (PL10-15). Kích cỡ tôm nhỏ nhất đạt thành thục từ 10 -13cm và 7,5g (Nguyễn Việt Thắng, 1993)
Quá trình lột xác tiền giao vĩ của tôm cái sẽ tiết ra chất dẫn dụ có tác dụng kích thích tôm đực tìm đến. Sau khi tôm lột xác 1 - 22 giờ, thường 3 - 6 giờ, tôm bắt đầu giao vĩ. Toàn bộ quá trình tiếp xúc và giao vĩ xảy ra trong vòng 20 - 35 phút. Sau khi giao vĩ 2-5 giờ, có khi 6 - 24 giờ, tôm cái bắt đầu đẻ trứng (Nguyễn Thanh Phương, 2003)
Tôm thường đẻ trứng vào ban đêm. Tôm cái thường di chuyển từ tầng đáy lên tầng giữa hay tầng mặt để đẻ.
Trong quá trình đẻ trứng, trứng được thụ tinh khi đi ngang túi chứa tinh. Trứng sẽ lần lượt dính từng chùm vào các lông tơ của các đôi chân bụng thứ tư, thứ ba, thứ hai và thứ nhất. Thời gian đẻ trứng khoảng 10 - 60 phút và thông thường từ 15 - 25 phút.
Những tôm cái thành thục chín muồi nhưng không được giao vĩ vẫn đẻ trứng trong vòng 24 giờ sau khi lột xác. Những trứng này do không được thụ tinh nên sẽ rụng sau 1-2 ngày (FAO, 1985).
Trong quá trình ấp trứng, tôm cái thường dùng chân bụng quạt nước, tạo dòng nước, cung cấp dưỡng khí cho trứng thời gian ấp đến trứng nở có thể từ 15-23 ngày phụ thuộc vào nhiệt độ nước .
Sức sinh sản
Tuổi thành thục của tôm càng xanh thường khoảng 180-270 ngày tuổi, tuy nhiên thời gian ấy còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố môi trường đặc biệt là nhiệt độ và dinh dưỡng.
Buồng trứng của tôm phát triển ở phần đầu ngực trải qua 5 giai đoạn phát triển của buồng trứng dao động trong khoảng 18 -20 ngày.
Khi buồng trứng phát triển đến giai đoạn V (full) tôm lột xác (lột xác tiền giao vĩ), sau lột xác thời gian thích hợp cho tôm giao vĩ l 3-6 giờ, khoảng 2-5 giờ sau khi giao vĩ tôm đẻ trứng, nếu tôm cái không được giao vĩ, trứng vẫn rụng và rơi ra khỏi khoang chứa trứng sau 1-2 ngày. Tùy vào kích cỡ và trọng lượng của tôm cũng như chất lượng số lần tham gia sinh sản của chúng sức sinh sản của tôm có thể thay đổi từ 5.000-1000.000 trứng. Trung bình, sức sinh sản tương đối của tôm khoảng 500-1.000 trứng/g trọng lượng tôm. Sau khi trứng thụ tinh, trứng được ấp trong khỏang 19-21 ngày ở nhiệt độ khoảng 28oC (Joseph v ctv, 1985)..
Khả năng tái phát dục:
Tôm cái có thể tái phát dục trong 16- 45 ngày vài trường hợp cá biệt thời gian tái dục ngắn chỉ sau 7 ngày. TCX có thể tái phát dục 4 - 6 lần trong vòng đời.
5.Tính ăn của tôm:
Tôm càng xanh ăn tạp thiên về động vật như nguyên sinh động vật, giun nhiều tơ, giáp xác, côn trùng, nhuyễn thể, các mảnh cá vụn, các loài tảo mùn bả hữu cơ.
PHẦN III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
PHẦN II
PHƯƠNG PHÁP - VẬT LIỆU - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thời gian và địa điểm:
Thực tập tại trại thực nghiệm sản xuất giống nước lợ Khoa Thủy Sản – Trường Đại Học Cần Thơ từ 22-10-2008 đến 30/12/2008.
Tham quan các mô hình sản xuất giống ở Thành phố Cần Thơ vào ngày 08/12/2008 và ngày 11/12/2008.
Phương pháp thực nghiệm:
Sinh viên trực tiếp tham gia quy trình ương tôm càng xanh với hệ thống nước xanh cải tiến và hệ thống lọc tuần hoàn ương tôm sú theo quy trình nước hở và nước trong kín tại trại thực nghiệm sản xuất giống nước lợ - Khoa Thủy Sản – Trường Đại Học Cần Thơ.
Sinh viên trực tiếp đến tham quan các trại sản xuất giống và lấy thông tin.
Tổng kết số liệu và viết bài báo cáo.
II. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU:
1. Tôm Sú :
3 bể composit 0,5m3 cho 3 nhóm
1 bể composit 1m3 để ương ấu trùng dư
1 bể 0,5 m3 dùng để ương theo hệ thống lọc tuần hoàn
1 bể xử lý nước ót 2m3
1 bể dùng để pha nước ương 3 m3
1 hệ thống lọc sinh học
1 bể nuôi tảo Chaetoceros 0,5 m3
1 bình thủy tinh 10L để ấp Artemia
2 thùng xốp để nuôi vỗ tôm bố mẹ
1 ống nhựa để siphon
1 túi lọc gòn
Hệ thống ống sục khí, đá bọt
Bạt đen để che tối tôm mẹ và các bể ương
Vợt cà thức ăn với kích loại kích cỡ, vợt thu ấu trùng, Artemia
Hệ thống đèn chiếu sáng
2. Tôm Càng Xanh
3 bể composit 0,5 m3 cho 3 nhóm
1 bể 0,5 m3 dùng để ương theo hệ thống lọc tuần hoàn
1 bể 1 m3 dùng để chứa tôm mẹ
1 bể 2 m3 để pha nước ương
1 hệ thống lọc sinh học
Hệ thống sục khí
Bể kính thu ấu trùng, bạt đen
Xô 20L ngâm chlorin để xử lý dụng cụ
2 xô 10L để ấp và xử lý Artemia
1 bể 0,5 m3 để nuôi tảo
Ray cà thức ăn với mắt lưới 300, 500, 700µm
Ngòai ra còn có các dụng cụ khác như : cân tiểu li, đèn pin, bơm chìm, ống thung để bơm nước, kính hiển vi, tủ lạnh, máy đo độ mặn, bếp gas, máy quay sinh tố…
3. Hóa Chất Và Thuốc
Chlorin, formol, test môi trường, test chlorin, TZ002, Ecomarin, Unikid…
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
1. SẢN XUẤT GIỐNG TÔM CÀNG XANH ÁP DỤNG QUY TRÌNH NƯỚC XANH CẢI TIẾN VÀ NƯỚC TRONG TUẦN HOÀN.
Vệ sinh trại và dụng cụ:
Trại được quét dọn sạch sẽ, tất cả các dụng cụ và bể ương tôm cũng như bể chứa nước phục vụ cho nuôi cấy tảo, nở Artemia … đều được rửa sạch Chlorine 200ppm. Sau 24 giờ mục đích là để loại tất cả các mần bệnh của các đợt sản xuất trước đó. Sau đó rửa lại nước sạch và để khô chuẩn bị cho công tác ương.
Xử lý nước:
Nước pha 12‰ sau đó xử lý Chlorine với nồng độ 30ppm để yên 24 giờ rồi sục khí liên tục. Sau đó lọc nước qua lớp bông gòn dày nh