Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ. Có thể nói hoạt động của hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Với vị trí là kênh dẫn vốn chủ yếu, ngân hàng đóng vai trò là cầu nối trung gian cung cấp vốn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp một số dịch vụ hay các tiện ích đa dạng khác nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng bộc lộ những yếu kém, những khó khăn, thách thức như các lĩnh vực kinh doanh khác. Một trong những vấn đề đó là hạn chế rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân nói riêng.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề, trong thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân, em đã thực hiện nghiên cứu đề tài: Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân. Trong quá trình nghiên cứu, em đã sử dụng phương pháp điều tra, thống kê, phương pháp so sánh và phân tích các số liệu thực tiễn để đưa ra cái nhìn rõ nét hơn về tình hình hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh, từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường hạn chế rủi ro tín dụng hữu hiệu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân
Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân
75 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2746 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thanh xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1: Bộ máy tổ chức của chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân 19
Sơ đồ 2.1: Quản lý nợ có vấn đề 44
Bảng 1.1: Trọng số rủi ro 11
Bảng 2.1: Hoạt động huy động vốn của chi nhánh 2006-2008 23
Bảng 2.2: Hoạt động tín dụng của chi nhánh 2006-2008 25
Bảng 2.3: Hoạt động dịch vụ của chi nhánh 2006-2008 27
Bảng 2.4 : Các kết quả tài chính của chi nhánh 2006-2008 28
Bảng 2.5:Kết cấu dư nợ theo thời hạn cho vay từ 2006-2008 30
Bảng 2.6: Kết cấu dư nợ theo loại tiền từ 2006-2008 32
Bảng 2.7: Kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế từ 2006-2008 34
Bảng 2.8:Tình hình nợ quá hạn từ năm 2006 đến năm 2008 35
Bảng 2.9: Tình hình nợ đã xử lý rủi ro từ năm 2006 đến năm 2008 38
Bảng 2.10: Xếp hạng khách hàng 41
Bảng 3.1: Kế hoạch kinh doanh của chi nhánh năm 2009 52
Bảng 3.2: Danh mục báo cáo 63
Biểu đồ 1.1: Hoạt động huy động vốn của chi nhánh 2006-2008 22
Biểu đồ 2.2: Dư nợ tín dụng của chi nhánh 2006-2008 25
Biểu đồ 2.3: Kết quả tài chính của chi nhánh 2006-2008 29
Biểu đồ 2.4: Kết cấu dư nợ theo thời hạn cho vay từ 2006-2008 31
Biểu đồ 2.5: Kết cấu dư nợ theo loại tiền từ 2006-2008 32
Biểu đồ 2.6: Kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế từ 2006-2008 34
Biểu đồ 2.7: Tình hình nợ nhóm 2 từ năm 2006 đến năm 2008 36
MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ... Có thể nói hoạt động của hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Với vị trí là kênh dẫn vốn chủ yếu, ngân hàng đóng vai trò là cầu nối trung gian cung cấp vốn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp một số dịch vụ hay các tiện ích đa dạng khác nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng bộc lộ những yếu kém, những khó khăn, thách thức như các lĩnh vực kinh doanh khác. Một trong những vấn đề đó là hạn chế rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân nói riêng.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề, trong thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân, em đã thực hiện nghiên cứu đề tài: Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân. Trong quá trình nghiên cứu, em đã sử dụng phương pháp điều tra, thống kê, phương pháp so sánh và phân tích các số liệu thực tiễn để đưa ra cái nhìn rõ nét hơn về tình hình hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh, từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường hạn chế rủi ro tín dụng hữu hiệu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân
Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Xuân
Chương 1: Rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động chủ yếu
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức kinh tế đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại gắn liền với quá trình phát triển của nền kinh tế. Quá trình phát triển của nền kinh tế là điều kiện đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải nỗ lực chuyển mình, đến lượt mình, các ngân hàng thương mại lại là nhân tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trên nhiều phương diện, nhiều góc độ ta có những cách định nghĩa về ngân hàng khác nhau như qua các chức năng, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp hay vai trò của ngân hàng. Các yếu tố này thay đổi không ngừng. Ngày càng nhiều các loại hình tổ chức tài chính ra đời, gồm các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu không những đang cung cấp những dịch vụ của mình mà còn đang cố gắng mở rộng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Để đối mặt với điều đó, ngân hàng cũng đang từng ngày mở rộng phạm vi cung ứng dịch vụ về các lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Giáo trình Ngân hàng thương mại của khoa Ngân hàng - tài chính, trường đại học Kinh tế quốc dân ghi “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.” Hay Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Tuy hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại rất đa dạng nhưng cơ bản đều có các hoạt động chủ yếu sau:
Một là, ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Khi một ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên và cũng là nghiệp vụ quan trọng nhất đánh dấu sự khác biệt của ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian khác là việc mở tài khoản tiền gửi làm nhiệm vụ giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng. Việc này có thể tận dụng được lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư, tổ chức kinh tế khác, làm dồi dào nguồn vốn của ngân hàng. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng với các hình thức đa dạng: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm… Ngoài ra, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm từ Ngân hàng Trung Ương, vay của ngân hàng khác, tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng hay bằng cách phát hành các giấy nợ trên thị trường vốn để giải quyết các nhu cầu cấp bách trong chi trả của mình.
Tuy nhiên, để huy động được vốn, ngân hàng thương mại phải bỏ ra khoản tiền nhất định tùy thuộc vào thời gian huy động vốn của ngân hàng, khối lượng tiền, loại tiền và lãi suất huy động tạo nên khoản chi phí lớn nhất. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn vốn huy động đảm bảo cho ngân hàng phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Hai là, hoạt động sinh lời - việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng. Một phần nguồn vốn được huy động ngân hàng giữ lại dưới dạng ngân quỹ, tồn tại dưới dạng các khoản dự trữ bắt buộc hay các khoản dự trữ vượt mức. Hoạt động đặc trưng nhất và cũng là hoạt động tạo nên lượng tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của các ngân hàng thương mại chính là hoạt động tín dụng. Ngoài ra, trong các hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay thì hoạt động đầu tư ngày càng đóng vai trò quan trọng. Ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động này dưới nhiều hình thức: đầu tư vào các chứng khoán như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, tín phiếu kho bạc, cổ phiếu, ủy thác, hùn vốn liên kết… Qua đó, ngân hàng không những thu được lợi nhuận mà còn đa dạng hóa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình, tạo cơ hội để ngân hàng thâm nhập sâu vào nền kinh tế, nắm bắt thông tin cần thiết, đưa ra định hướng phù hợp nhất cho các hoạt động khác của ngân hàng.
Dù hoạt động dưới bất kỳ hình thức nào, mục tiêu của việc sử dụng vốn là đảm bảo bù đắp chi phí huy động vốn đã bỏ ra và tạo lợi nhuận, tạo tiền đề cho việc mở rộng hoạt động của ngân hàng.
Ba là, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ,… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Ngày nay, khi mà công nghệ ngày càng phát triển, có tác động to lớn đến các lĩnh vực đời sống kinh tế, các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung Ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán, đạt hiệu quả ngày càng cao với quy mô rộng lớn.
Ngoài ra, ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả. Một số dịch vụ tài chính cụ thể như: mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, đại lý.
1.2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Bản chất
Do ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt - hàng hoá tiền tệ, ngân hàng luôn phải đối đầu với rủi ro mà chúng ta không thể lường trước được. Rủi ro xảy ra phổ biến và gần như mang tính tất yếu đối với mọi hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống kinh tế, xã hội của con người. Thực tiễn hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đã cho thấy, rủi ro đối với ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường rất dễ xảy ra và đa dạng như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái... trong đó rủi ro tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất và được các nhà quản trị đặc biệt quan tâm.
Vậy, thế nào là rủi ro tín dụng? Theo Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng được ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, được coi là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. Có nghĩa là khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Mỗi một khoản cho vay mà ngân hàng thực hiện cho khách hàng vay đều hàm chứa rủi ro. Hoạt động tín dụng là hoạt động phức tạp, không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào bên đối tác và môi trường hoạt động của các ngành nghề bởi các ngành nghề lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Một số ý kiến cho rằng, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi hoạt động tín dụng đạt được tỷ lệ tổn thất dưới mức dự kiến, có thể coi như đó là một thành công trong quản lý của ngân hàng.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Để có cái nhìn thấu đáo nhất khi đánh giá các loại rủi ro tín dụng, chúng ta có
một số cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu.
Phân loại rủi ro tín dụng theo khả năng kiểm soát rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được (rủi ro khả kháng): là loại rủi ro mà ngân hàng có thể dự đoán được chủ thể gây ra rủi ro, ước tính được mức độ ảnh hưởng và thời gian phát sinh rủi ro… từ đó đưa ra những biện pháp hợp lý để phòng ngừa, hạn chế tổn thất ở mức độ tối thiểu chấp nhận được. Nguyên nhân của những rủi ro này thường là do trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì… là những nguyên nhân có tính chủ quan, chủ yếu là từ phía khách hàng.
Rủi ro tín dụng không thể kiểm soát được (rủi ro bất khả kháng):đây là loại rủi ro tín dụng mà ngân hàng không thể dự đoán và xác định được một cách chính xác ảnh hưởng của chúng. Nguyên nhân bất khả kháng tác động đến người vay, làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Những nguyên nhân bất khả kháng như: thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi tầm vĩ mô vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Phân loại rủi ro tín dụng theo chủ thể là Ngân hàng
Rủi ro từ bên trong ngân hàng:là loại rủi ro phát sinh từ bên trong ngân hàng do cán bộ tín dụng, do quy trình tín dụng lỏng lẻo, do chưa có sự kiểm soát sát sao đối với các khoản tín dụng…
Rủi ro từ bên ngoài ngân hàng: là loại rủi ro phát sinh do Chính phủ ban hành các chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan, chính sách cho vay theo chỉ định của Nhà nước…
1.3. Hạn chế rủi ro tín dụng
1.3.1. Bản chất
Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thương mại bao gồm hai mặt sinh lời và rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng cao. Phần lớn các thua lỗ của các ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Song ở đây không có cách gì loại trừ rủi ro tín dụng hoàn toàn mà phải quản lí cẩn thận. Đứng trước quyết định cho vay, các nhà quản trị ngân hàng phải cân nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi ro, tối đa hóa giá trị vốn chủ sở hữu nhưng cũng phải đảm bảo mục tiêu an toàn cho chính bản thân ngân hàng cũng như cho nền kinh tế. Chính vì vậy, các nhà quản trị đã đưa ra nhiều biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng.
“Hạn chế rủi ro tín dụng được hiểu là việc ngăn ngừa khả năng rủi ro tín dụng xảy ra, nếu rủi ro tín dụng đã xảy ra thì xử lý tổn thất một cách hữu hiệu nhất”.
Để có thể hạn chế rủi ro tín dụng hiệu quả nhất, các ngân hàng thương mại phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, theo điều 6 (phương pháp định lượng) và điều 7 (phương pháp định tính), ngân hàng phân loại nợ:
Phân loại nợ
- Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
- Nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
- Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
- Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.
- Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ như sau:
- Nhóm 1: 0%
- Nhóm 2: 5%
- Nhóm 3: 20%
- Nhóm 4: 50%
- Nhóm 5: 100%
Trong đó nợ nhóm 3, 4, 5 được coi là nợ xấu.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ hạn chế rủi ro tín dụng
Một câu luôn được đặt ra, không ít lần làm đau đầu các nhà quản trị ngân hàng, Làm thế nào để hạn chế rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng hạn chế tới mức nào là hợp lý? Để có những biện pháp thích hợp hạn chế rủi ro tín dụng, các nhà quản trị nhìn vào sự thay đổi của một số chỉ tiêu sau đây:
(1).Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng. Tức là khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
(2).Nợ khó đòi và tỉ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như quá một kỳ gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng: hy vọng thu lại tiền là mong manh, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Rủi ro tín dụng đã xảy ra.
Các chỉ tiêu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và phản ánh mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn vốn mới, chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng, do có các quan điểm khác nhau, các cách tính toán khác nhau về kỳ hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng, nếu chỉ nhìn vào các chỉ tiêu này mà kết luận là ngân hàng gặp rủi ro tín dụng quá mức cho phép là chưa đủ. Khi xem xét rủi ro tín dụng, người ta thường tính toán chỉ tiêu nợ quá hạn đi kèm với tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ khó đòi trên nợ quá hạn.
Để có lợi nhất cho mình, ngân hàng có thể bóp méo các chỉ tiêu bằng cách định kỳ hạn nợ không đúng. Tức là kỳ hạn nợ không phù hợp với chu kỳ thu nhập của người vay, khi đến hạn, người vay dĩ nhiên sẽ không thể trả nợ được, gây nợ quá hạn, trở thành mối đe dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải trả thêm phụ phí và lãi suất phạt. Hoặc bằng cách đảo nợ, giãn nợ, để che giấu đối với ngân hàng cấp trên, hoặc để không chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên ngân hàng thỏa thuận vay khoản mới để trả nợ cũ. Hay những khoản vay theo chỉ thị của Chính phủ. Tất cả đều tạo nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng thương mại.
(3).Nợ có vấn đề
Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Những khoản cho vay có vấn đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân hàng. Các khoản nợ này nếu được phát hiện sớm và được áp dụng các biện pháp, quy trình nghiệp vụ thích hợp sẽ ngăn ngừa các khoản nợ quá hạn phát sinh giảm khả năng tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu. Khi các khoản có vấn đề giảm về giá trị và số món, cũng như tỷ lệ nợ có vấn đề trên tổng dư nợ giảm đi chính là biểu hiện của hạn chế rủi ro tín dụng.
(4). Phương pháp đo lường Value at risk (VaR)
VaR của một danh mục tài sản tài chính được định nghĩa là khoản tiền lỗ tối đa trong một thời hạn nhất định, nếu ta loại trừ những trường hợp xấu nhất (worst case scenarios) hiếm khi xảy ra. VaR là một phương pháp đánh giá mức rủi ro của một danh mục cho vay theo hai tiêu chuẩn như giá trị của danh mục cho vay và khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng.
Ðối với ngân hàng thì VaR của một danh mục tài sản tài chính phụ thuộc vào ba thông số quan trọng : độ tin cậy (ví dụ : nếu độ tin cậy là 99% thì có nghĩa có 1% trường hợp xấu nhất có thể xảy ra), khoảng thời gian đo lường VaR và sự phân bố lời/lỗ trong khoảng thời gian này.
Hiện nay có 4 phương pháp thông dụng nhất để tính VaR:
- Phân tích quá khứ (historical method): phương pháp đơn giản này đưa ra giả thuyết rằng sự phân bố tỷ suất sinh lợi trong quá khứ có thể tái diễn trong tương lai.
- Phương sai - Hiệp phương sai (Variance – covariance method): phương pháp này đưa ra giả thuyết rằng các tỷ suất sinh lời và rủi ro tuân theo phân bố chuẩn.
- RiskMetrics: phương pháp này tính độ lệch chuẩn theo những suất sinh lời mới nhất, cho ta phản ứng nhanh chóng khi thị trường thay đổi đột ngột và đồng thời cho ta quân tâm đến những sự kiện cực kỳ quan trọng có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị của danh mục cho vay.
- MonteCarlo: cho VaR chính xác nhưng chi phí thực thi cao.
VaR được sử dụng làm cơ sở cho việc phân bổ nguồn vốn trong các loại tài sản của danh mục và là công cụ hữu hiệu trong việc hạn chế rủi ro tín dụng tại các ngân hàng hiện nay. Ưu việt cơ bản nhất của phương pháp VaR là tính minh bạch, tính thông tin và tính có thể so sánh được của VaR. Tuy nhiên VaR cũng có giới hạn, khi chọn một phương pháp tính VaR cần cân nhắc những tiêu chuẩn nhất định như chi phí thực thi, tính phức tạp, tính linh hoạt của mô hình, cách tổng hợp và khai thác dữ liệu.
(5). Phương pháp ước tính tổn thất tín dụng của Basel II
Basel II bao gồm những khuyến nghị về luật và quy định ngành ngân hàng, được ban hành bởi Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision). T