Hệ thống chuỗi siêu thị bán lẻ của Sài Gòn Coop

Trong tiến trình hội nhập, yếu tố cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đi tìm cho mình những giải pháp giúp sử dụng và kết hợp các nguồn lực một cách tối ưu nhất nhằm giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp cần đến dịch vụ logistics, logistics có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam đã là thành viên của WTO. Những bất cập trong hoạt động logistics đang trở thành bức xúc lớn, nếu chúng ta không nhanh tháo gỡ để làm tốt dịch vụ này thì sức cạnh tranh của quốc gia, sức cạnh tranh của DN và hàng hóa Việt Nam sẽ bị hạn chế rất nhiều. Hơn nữa tính chất, quy mô hoạt động dịch vụ logistics cũng rất rộng, nó bao gồm: hoạt động vận tải biển, một công đoạn của cảng sếp dỡ hàng hóa và kho bãi, việc phân phối thông qua các đại lý, tổng đại lý bán buôn, bán lẻ, Nó là cả một quá trình tổng hợp của tất cả các khâu từ sản xuất cho đến tay người tiêu dùng . Tuy nhiên chúng ta mới dừng lại ở khâu dịch vụ nội địa, chứ chưa vươn được ra các nước khu vực và trên thế giới. Hay chúng ta mới “giải quyết” được một vài công đoạn trong cả chuỗi dịch vụ Logistics khép kín Nước ta đã có trên một nghìn Doanh nghiệp đăng ký làm logistics, nhưng chỉ có khoảng 800 DN thực sự có tham gia hoạt động, trong đó DN Nhà nước chiếm khoảng 20%, Công ty TNHH, DN cổ phần chiếm 70%, còn 10% là các gia đình, tư nhân làm nhỏ lẻ, tham gia làm từng phần, từng công đoạn. Đặc biệt, chuỗi cung ứng trong hệ thống logistics đang được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng và thực hiện ngày một tốt hơn.

doc25 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7116 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hệ thống chuỗi siêu thị bán lẻ của Sài Gòn Coop, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lyù do choïn ñeà taøi Trong tiến trình hội nhập, yếu tố cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đi tìm cho mình những giải pháp giúp sử dụng và kết hợp các nguồn lực một cách tối ưu nhất nhằm giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp cần đến dịch vụ logistics, logistics có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Hiện nay Việt Nam đã là thành viên của WTO. Những bất cập trong hoạt động logistics đang trở thành bức xúc lớn, nếu chúng ta không nhanh tháo gỡ để làm tốt dịch vụ này thì sức cạnh tranh của quốc gia, sức cạnh tranh của DN và hàng hóa Việt Nam sẽ bị hạn chế rất nhiều. Hơn nữa tính chất, quy mô hoạt động dịch vụ logistics cũng rất rộng, nó bao gồm: hoạt động vận tải biển, một công đoạn của cảng sếp dỡ hàng hóa và kho bãi, việc phân phối thông qua các đại lý, tổng đại lý bán buôn, bán lẻ,…Nó là cả một quá trình tổng hợp của tất cả các khâu từ sản xuất cho đến tay người tiêu dùng…. Tuy nhiên chúng ta mới dừng lại ở khâu dịch vụ nội địa, chứ chưa vươn được ra các nước khu vực và trên thế giới. Hay chúng ta mới “giải quyết” được một vài công đoạn trong cả chuỗi dịch vụ Logistics khép kín…Nước ta đã có trên một nghìn Doanh nghiệp đăng ký làm logistics, nhưng chỉ có khoảng 800 DN thực sự có tham gia hoạt động, trong đó DN Nhà nước chiếm khoảng 20%, Công ty TNHH, DN cổ phần chiếm 70%, còn 10% là các gia đình, tư nhân làm nhỏ lẻ, tham gia làm từng phần, từng công đoạn. Đặc biệt, chuỗi cung ứng trong hệ thống logistics đang được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng và thực hiện ngày một tốt hơn. Có thể nói, thị trường bán lẻ Việt Nam khá sôi động và hấp dẫn các doanh nghiệp tham gia họat động. Vừa qua, Ngân hàng Thế Giới công bố chỉ số phát triển bán lẻ tòan cầu của Việt Nam trong năm 2007 đạt 74/100 điểm, đứng thứ 4 trên Thế giới (chỉ sau Ấn Độ, Nga, Trung Quốc). Với thị trường bán lẻ trị giá 37 tỷ USD mỗi năm, dự kiến tăng trưởng sức mua trong nước luôn đạt lớn hơn 20%. Điều đáng nói là chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam đang ở mức cao kỷ lục, đạt 118 điểm và đứng thứ 5 trên thế giới trong khi chỉ số này trên toàn cầu đang giảm. Đó chính là vì người tiêu dùng Việt Nam ngày càng được hưởng nhiều hơn sự tiện dụng của hệ thống bán lẻ. Từ đó thói quen mua sắm thay đổi cũng như xu hướng tiêu dùng của họ cũng thay đổi và trở thành những khách hàng ngày càng khó tình. Điều này đòi hỏi chuỗi cung ứng trong việc bán lẻ phải ngày càng củng cố và hoàn thiện hơn để đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của người tiêu dùng. Saigon Co-op được biết đến là doanh nghiệp bán lẻ hàng đầu trong nước có mức doanh thu tương đối cao, chiếm vị trí số một trong số các nhà cung cấp hàng hóa tại Việt Nam và lọt vào top 500 nhà bán lẻ lớn trong khu vực. Tuy nhiên, so với năm trước thì Saigon Coop ở hạng 330, năm nay đã tụt 37 bậc. Nguyên nhân của sự tụt giảm này do một phần là sự phát triển của các nhà bán lẻ quốc tế nhưng cũng cần xem xét lại chuỗi cung ứng trong việc bán lẻ của hệ thống Saigon Coop hiện tại thế nào và cần cải thiện ra sao để chuỗi cung ứng ngày một hoàn thiện hơn và doanh thu ngày một cao hơn. Đó chính là lý do nhóm chúng tôi chọn đề tài “HỆ THỐNG CHUỖI SIÊU THỊ BÁN LẺ CỦA SÀI GÒN CO-OP” để tìm hiểu rõ hơn về quy trình cung ứng hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập. Chương I TỔNG QUAN VỀ LIÊN HIỆP HỢP TÁC XÃ THƯƠNG MẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SÀI GÒN CO-OP Trải qua gần 20 năm với nhiều thăng trầm cùng với sự đi lên của nền kinh tế nước nhà, đến nay Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại TP Hồ Chí Minh (Saigon Co-op) đã và đang khẳng định uy tín của mình trên thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Saigon Co-op là một chuỗi hệ thống siêu thị đang hoạt động tại TP HCM và các tỉnh thành miền Trung – Nam, nằm trong top 500 nhà bán lẻ hàng đầu Châu Á – Thái Bình Dương và là nhà bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam. Tiền thân là hợp tác xã (HTX) mua bán với tư duy thương mại mang đậm tính “cấp phát”. Lúc đó, hàng định lượng không đủ cung cấp cho khách hàng nên lãnh đạo Saigon Co-op buộc phải thiết lập mối quan hệ với các nhà sản xuất và những chủ vựa khu vực đồng bằng sông Cửu Long để mua thêm hàng hóa rồi bán ra với giá thỏa thuận. Đây chính là bước tập dượt cho đội ngũ nhân viên của Saigon Co-op làm quen với việc mua bán, đàm phán, ký kết hợp đồng... những việc còn rất mới mẻ, xa lạ trong ngành thương mại lúc bấy giờ. Chính vì vậy, đến khi mở cửa, cả đội ngũ cán bộ công nhân viên của Saigon Co-op đã “hội nhập” rất nhanh, kết hợp với việc cử cán bộ đi học, nghiên cứu thị trường, cung cách làm ăn cũng như tranh thủ sự giúp đỡ của các HTX quốc tế, Saigon Co-op đã từng bước khẳng định vị trí của mình đối với người tiêu dùng VN. Năm 1996, siêu thị đầu tiên của Saigon Co-op ra đời, đây chính là sự quay lại với “sở trường” của Saigon Co-op nhưng đã có một sự “lột xác”, sự thay đổi thực sự từ tư duy “cấp phát” sang “phục vụ”, đánh dấu một chặng được vừa làm, vừa học, vừa xây dựng... của Saigon Co-op thành công ngày nay. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH Giai đoạn 1989 – 1991: Sau đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế đất nước chuyển từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Mô hình kinh tế HTX kiểu cũ thật sự khó khăn và lâm vào tình thế khủng hoảng phải giải thể hàng loạt. Trong bối cảnh như thế, ngày 12/5/1989 UBND Thành phố Hồ Chí Minh có chủ trương chuyển đổi Ban Quản lý HTX Mua Bán Thành phố trở thành Liên hiệp HTX Mua bán Thành phố Hồ Chí Minh – Saigon Co-op với 2 chức năng trực tiếp kinh doanh và tổ chức vận động phong trào HTX. Saigon Co-op là tổ chức kinh tế HTX theo nguyên tắc xác lập sở hữu tập thể, hoạt động sản xuất kinh doanh tự chủ và tự chịu trách nhiệm Giai đoạn 1992 – 1997: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam làm cho các Doanh nghiệp phải năng động và sáng tạo để nắm bắt các cơ hội kinh doanh, học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các đối tác nước ngoài. Saigon Co.op đã khởi đầu bằng việc liên doanh liên kết với các công ty nước ngoài để gia tăng thêm nguồn lực cho hướng phát triển của mình. Là một trong số ít đơn vị có giấy phép XNK trực tiếp của Thành phố, hoạt động XNK phát triển mạnh mẽ mang lại hiệu quả cao, góp phần xác lập uy tín, vị thế của Saigon Co-op trên thị trường trong và ngoài nước. Sự kiện nổi bật nhất là sự ra đời Siêu thị đầu tiên của Hệ thống Co-opMart là Co.opMart Cống Quỳnh vào ngày 09/02/1996, với sự giúp đỡ của các phong trào HTX quốc tế đến từ Nhật, Singapore và Thụy Điển. Từ đấy loại hình kinh doanh bán lẻ mới, văn minh phù hợp với xu hướng phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh đánh dấu chặng đường mới của Saigon Co-op. Giai đoạn 1998-2007: Giai đoạn 1998 -2003 ghi dấu ấn một chặng đường phát triển mới của Saigon Co-op. Luật HTX ra đời tháng 01/1997 mà Saigon Co-op là mẫu HTX điển hình minh chứng sống động về sự cần thiết, tính hiệu quả của loại hình kinh tế HTX, góp phần tạo ra thuận lợi mới cho phong trào HTX trên cả nước phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động bán lẻ theo đúng chức năng, lãnh đạo Saigòn Co.op dành thời gian nghiên cứu học tập kinh nghiệm của hệ thống Siêu thị KF (Thụy Điển), NTUC Fair Price (Singapore), Co-op (Nhật Bản) để tạo ra một hệ thống siêu thị mang nét đặc trưng của phương thức HTX tại TPHCM và Việt Nam. Năm 1998 Saigon Co-op đã tái cấu trúc về tổ chức và nhân sự, tập trung mọi nguồn lực của mình để đầu tư mạnh cho công tác bán lẻ (Các Siêu thị Co-opMart lần lượt ra đời đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng : hình thành chuỗi siêu thị mang thương hiệu Co-opMart). Tính đến 02/2008, hệ thống Co-opMart có 28 siêu thị bao gồm 16 Co-opMart ở TPHCM và 17 Co-opMart tại các tỉnh (Co-opMart Cần Thơ, Mỹ Tho, Quy Nhơn, Vĩnh Long, Long Xuyên, Pleiku, Phan Thiết, Biên Hoà, Vị Thanh, Tam Kỳ, Tuy Hòa và Vũng Tàu, Huế). Co-opMart trở thành thương hiệu quen thuộc của người dân thành phố và người tiêu dùng cả nước. Là nơi mua sắm đáng tin cậy của người tiêu dùng THÀNH TÍCH SAU 15 NĂM HOẠT ĐỘNG Top 500 nhà bán lẻ hàng đầu Châu Á Thái Bình Dương Tháng 8/1999 Thành lập Tổng Đại Lý Phân Phối. Saigon Co-op nhận Huân Chương Vàng Nhà Bán Lẻ hàng đầu Việt Nam năm 2004 và 2005 Thương hiệu Việt được yêu thích nhất do Báo SGGP tổ chức bình chọn (2005-2006-2007). Dịch vụ Việt Nam chất lượng cao do Báo SGTT trao giải năm 2007 Top 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam do tổ chức UNDP bình chọn 2007 Giải vàng chất lượng Châu Âu Saigon Co-op nhận giải vàng chất lượng Châu Âu do tổ chức Business Initiative Directions trao tặng năm 2007 Dịch vụ được người tiêu dùng hài lòng nhất do Báo SGTT tổ chức bình chọn năm 2008 Chương 2 HỆ THỐNG CHUỖI SIÊU THỊ BÁN LẺ CỦA SÀI GÒN CO-OP 2.1 Lựa chọn nhà cung cấp Co-opMart là khách hàng của nhiều nhà cung ứng hàng hóa nước ngoài nổi tiếng trên thị trường Việt Nam điển hình như Unilever, P&G, Pepsi Co, UNZA, Kao … và trong nước như Vinamilk, Vissan, Kinh Đô, Bibica. Bên cạnh đó Co.op Mart còn ưu tiên chọn những sản phẩm của nhà sản xuất có chứng chỉ ISO-9000 hoặc một hệ thống quản lý chất lượng tương đương, tối thiểu là nhà sản xuất có hàng Việt Nam chất lượng cao do người tiêu dùng bình chọn. Để trở thành nơi “Mua sắm đáng tin cậy, bạn của mọi nhà” những sản phẩm mà coop mart chọn phục vụ trong siêu thị là những sản phẩm đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Do đó, Co-opMart lựa chọn những đối tác uy tín, có thương hiệu trên thị trường; trên 85% hàng hóa của Co-opMart là hàng sản xuất trong nước, đặc biệt là các sản phẩm hàng Việt Nam chất lượng cao. Nắm bắt được thói quen đi chợ hàng ngày của người tiêu dùng, Co-opMart đã đưa những sản phẩm thực phẩm tươi sống vào siêu thị và thông qua việc hợp tác với các nhà cung ứng ở các chợ đầu mối cũng như các nhà sản xuất có uy tín trên thị trường như Vissan,… 2.2 Hệ thống thông tin Hệ thống siêu thị Co-opMart (TP.HCM), ngay từ ngày đầu hoạt động (năm 1996) đã sử dụng phần mềm FoxPro for DOS chạy trên hệ điều hành Netware, với tiêu chí đầu tiên là tốc độ quét (scan) mã hàng và in hóa đơn phải nhanh. Nhưng do chỉ sử dụng một số phần mềm ứng dụng thông thường nên việc quản lý thông tin về hoạt động kinh doanh của Co-opMart vẫn chưa đạt hiệu quả tối ưu. Năm 1999, bộ phận vi tính của Liên Saigon Co-op áp dụng một phần mềm quản lý mới, xây dựng bằng hệ quản trị cơ sở dữ liệu Access, áp dụng cho hầu hết các siêu thị trong hệ thống. Saigon Co-op đã mua một chương trình này từ một công ty có nhiều năm kinh nghiệm trong việc viết các chương trình liên quan đến hàng hóa vật tư. Chương trình này chạy rất tốt và nhanh mặc dù nó có một giao diện khá xấu và bất tiện. Để khắc phục nhược điểm trên, bộ phận vi tính của Saigon Co-op đã viết những module tiện ích bổ sung cho chương trình chính và chúng có thể đảm nhiệm phần lớn công việc xử lý của hệ thống. Sau đó, bắt tay vào việc thiết kế một chương trình hoàn toàn mới có tính hệ thống rất cao mà vẫn bảo đảm tính dễ sử dụng và dễ bảo trì. Hiện nay, do công tác quản lý đòi hỏi phần mềm phải có khả năng bảo mật cao, truy xuất từ xa, hỗ trợ ra quyết định... phù hợp với tốc độ phát triển kinh doanh của hệ thống siêu thị Co-opMart, cuối năm 2005 Saigon Co.op đã đầu tư gần 1,5 triệu đô la Mỹ để đặt mua hệ thống điện toán hiện đại ERP từ hai tập đoàn chuyên cung cấp phần mềm của nước ngoài, nhằm hiện đại hóa toàn bộ hoạt động kinh doanh của hệ thống Co-opMart. Từ đầu năm 2006, Saigon Co-op đã đưa vào sử dụng hệ thống điện toán ERP (kết nối với các nhà cung cấp kiểm soát tồn kho, đặt hàng và bổ sung hàng tự động), sẵn sàng cung ứng hàng hóa theo đơn đặt hàng trong vòng 24 giờ, bảo đảm chất lượng sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Sài Gòn Coop còn áp dụng tiêu chuẩn ISO - HACCP nhằm kiểm soát chất lượng đầu vào và đầu ra của hàng hóa. ERP là gì? ERP - Hệ quản trị doanh nghiệp tích hợp (Enterprise resources Planning) là bộ giải pháp công nghệ thông tin có khả năng tích hợp toàn bộ ứng dụng quản lí sản xuất kinh doanh vào một hệ thống duy nhất, có thể tự động hoá các quy trình quản lý. Mọi hoạt động của doanh nghiệp, từ quản trị nguồn nhân lực, quản lý dây chuyền sản xuất và cung ứng vật tư, quản lý tài chính nội bộ đến việc bán hàng, tiếp thị sản phẩm, trao đổi với các đối tác, với khách hàng đều được thực hiện trên một hệ thống duy nhất. Chẳng hạn module CRM (quản lý quan hệ khách hàng) hay phần mềm kế toán trước đây là những phần mềm riêng biệt nay cũng được tích hợp vào hệ thống ERP. ERP hỗ trợ rất lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất vì tất cả các hoạt động của doanh nghiệp sẽ được tự động hóa gần như toàn bộ từ việc mua nguyên vật liệu, quản lý dây chuyền sản suất, quản lý kho, bán hàng...đặc biệt là những doanh nghiệp đang quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO. Trên thế giới, hiện có rất nhiều doanh nghiệp lớn triển khai và sử dụng trọn bộ giải pháp ERP cho hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh trên hai lĩnh vực: Sản xuất chế tạo, kinh doanh dịch vụ. Qua thực tế đã được kiểm nghiệm, ERP được đánh giá cao trong việc giúp doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh hiệu quả và là lĩnh vực có nhiều tiềm năng phát triển và đầu tư. Việc triển khai thành công ERP sẽ tiết kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, đem lại cho doanh nghiệp lợi ích lâu dài. Cấu trúc của hệ thống ERP? Gồm 5 phần chính: Quản lý giao dịch khách hàng (CRM - Customer Relationship Management): cung cấp các tính năng và công cụ phục vụ cho tiếp thị, bán hàng, dịch vụ, hỗ trợ tìm kiếm, thu hút và giữ khách. Kinh doanh thông minh (Business Intelligence): cung cấp thông tin đặc thù về kinh doanh ở mọi lĩnh vực của công ty - từ tiếp thị và bán hàng, vận hành của hệ thống mạng đến các chiến lược và kế hoạch về tài chính. Quản lý dây chuyền cung cấp (Supply Chain Management): tích hợp hệ thống cung cấp mở rộng và phát triển một môi trường kinh doanh thương mại điện tử thực sự. Chương trình cho phép doanh nghiệp cộng tác trực tiếp với khách hàng, nhà cung cấp ở cả hai phương diện mua và bán, chia sẻ thông tin. Thương trường (Marketplace): cung cấp một hạ tầng cộng tác tạo nên môi trường kinh doanh ảo, giúp mở rộng khả năng hiểu biết về thị trường cũng như sự liên kết chặt chẽ giữa các quy trình kinh doanh với nhau. Nơi làm việc (Workplace): là một cổng ra của công ty cho phép truy xuất thông tin, ứng dụng, dịch vụ bên trong cũng như ngoài công ty bất kỳ lúc nào. Mọi nhân viên, khách hàng, nhà phân phối, đầu tư, các đối tác môi giới trung gian... đều có thể sử dụng cổng vào này với chế độ bảo mật và phân quyền theo chức năng. Những ưu điểm vượt trội của phần mềm ERP so với các phần mềm thông thường: Tính tích hợp là ưu điểm lớn nhất của phần mềm ERP so với các phần mềm thông thường khác. Thay vì phải dùng nhiều phần mềm quản lý khác nhau cho các bộ phận các phòng ban thì nay tất cả các bộ phận, phòng ban sẽ tác nghiệp trên một phần mềm duy nhất. Xét về chức năng thì một phần mềm ERP có đầy đủ các chức năng của các phần mềm riêng biệt, ERP = phần mềm kế toán + phần mềm hỗ trợ bán hàng + phần mềm quản lý nhân lực…. Không những thế các modules có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như các bộ phận trong cơ thể chúng ta vậy. Và một điểm vượt trội khác của phần mềm ERP so với các mềm thông thường là ERP quản lý toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp theo quy trình mà những phần mềm thông thường khác không làm được. Một quy trình hoạt động của doanh nghiệp bao gồm nhiều bước, mỗi bước thực hiện một chức năng nào đó, thông tin đầu vào của bước này là thông tin đầu ra của bước trước và thông tin đầu ra của bước này cũng là thông tin đầu vào của bước kế tiếp... Một điều dễ nhận ra là một quy trình hoạt động của doanh nghiệp thường liên quan đến nhiều phòng ban và phần mềm ERP thực hiện tốt trong việc phối hợp hoạt động của các phòng ban trong doanh nghiệp trong khi các phần mềm quản lý rời rạc thường chỉ phục vụ cho một phòng ban cụ thể và không có khả năng phối hợp hay hỗ trợ các phòng ban hay bộ phận khác. Ứng dụng ERP doanh nghiệp được lợi gì? Doanh nghiệp được quản lý bằng phần mềm ERP linh hoạt và hiện đại. Mọi công việc quản lý của nhân viên được hỗ trợ và tối ưu hóa. Tất cả các nhân viên đều được phần mềm hỗ trợ thông tin cần thiết đúng với vị trí và trách nhiệm mình trong khi tác nghiệp. Ban lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được phần mềm ERP cung cấp các thông tin chính xác một cách nhanh chóng và thông qua đó họ có thể biết được mọi tình hình của doanh nghiệp thông qua đó họ có thể đưa ra được những quyết định chính xác và đúng đắn. Như vậy, mọi nguồn lực của doanh nghiệp được tối ưu hóa các nhà lãnh đạo sẽ không còn phải chịu cảnh mập mờ thiếu thốn về thông tin, mọi báo cáo thống kê có thể có được bất cứ lúc nào…. Cũng như trước đây, các doanh nghiệp đầu tiên trong việc áp dụng phần mềm kế toán đều là các doanh nghiệp thành công. Rồi đây, ERP cũng sẽ trở nên phổ biến như việc áp dụng phần mềm kế toán bây giờ, các doanh nghiệp chậm chân hơn rất có thể sẽ phải trả giá cho sự chậm trễ của mình. Ngoài việc trang bị các công cụ thông tin thông dụng như điện thoại và fax, Coop mart đã thiết kế hệ thống trao đổi thông tin cục bộ intranet (Intranet intermediary emailing system) . Đây là hình thức trao đổi thông tin thông qua kết nối trung gian, được quản lý bởi các máy chủ và các máy trạm, nhờ đó việc trao đổi thông tin trong nội bộ các phòng ban hiệu quả hơn. Hiện nay Coop.mart đang xúc tiến việc áp dụng hệ thống trao đổi thông tin giữa các siêu thị trong hệ thống Coop.mart dưới dạng telex. Đây là một hệ thống thông tin hữu hiệu với nhiều chức năng giúp người sử dụng tiết kiệm thời gian và trao đổi thông tin nhanh chóng. Hơn nữa, Co-opMart đã xây dựng được một website cho riêng mình nhằm giúp cho khách hàng có thể tìm hiểu thông tin về hệ thống Co-opMart như lịch sử hình thành Coop.mart, các mặt hàng hiện có cùng với giá cả, giảm giá, khuyến mãi và thông tin dịch vụ khách hàng. Website còn có chức năng liên hệ, nhận ý kiến phản hồi của khách hàng để nắm bắt kịp thời các nhu cầu của khách hàng. Website được cập nhật thường xuyên nhằm chắc chắn rằng khách hàng có thể nhận được những thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Vừa qua Microsoft và Saigon Co-op đã ký kết bản thỏa thuận hợp tác doanh nghiệp về sử dụng phần mềm có bản quyền của Microsoft. Theo đó, Microsoft sẽ cung cấp và hỗ trợ kỹ thuật cho Saigon Co-op triển khai chuẩn hoá hệ thống công nghệ thông tin với những phần mềm có bản quyền của Microsoft. Theo thỏa thuận ký kết, Microsoft Việt Nam sẽ hỗ trợ, tư vấn, đào tạo cho Saigon Co-op trong quá trình triển khai đồng bộ tối ưu hóa hạ tầng công nghệ thông tin, quản lý vận hành, và trao đổi thông tin an toàn trên nền công nghệ của Microsoft. Đồng thời, hai bên cam kết sẽ hợp tác chặt chẽ để triển khai và ứng dụng thành công CNTT vào các hoạt động kinh doanh của Saigon Co-op. 2.3 Vấn đề dự trữ Các siêu thị trong hệ thống Saigon Co-op đều có kho dự trữ hàng hóa và dự trữ với khối lượng lớn nhằm : Bình ổn giá cả : trước tình hình giá cả hàng hóa gia tăng đột biến, phức tạp trên thị trường, Saigon Co-op đã có những giải pháp hữu hiệu góp phần ổn định giá. Tăng lượng hàng dự trữ tại các tổng kho nhằm kéo giãn tốc độ tăng giá – vì chỉ khi doanh nghiệp chủ động được nguồn hàng có sẵn mới có thể tính tới chuyện bình ổn giá. Là một trong những tổng công ty lớn của Tp.HCM có hệ thống phân phối lớn, năm nào Saigon Co.op cũng được UBND Tp.HCM giao nhiệm vụ góp phần bình ổn giá tiêu dùng. Hiện nay, UBND thành phố đã có những văn bản chỉ đạo và Saigon Co-op cũng đã chuẩn bị và báo cáo đầy đủ với UBND thành phố về kế hoạch dự trữ hàng Tết cũng như kế hoạch khai trương mở rộng mạng lưới các cửa hàng của Saigon Co-op từ nay đến cuối năm. Bên cạnh giải pháp tăng lượng hàng hóa dự trữ để bình ổn giá cả, Co-opMart còn thực hiện một số biện pháp: Đàm phán với các nhà cung cấp đề nghị không tăng giá. Đồng thời, Co-opMart cũng cam kết ngược lại, nếu nhà cung cấp nào không tăng giá thì chúng tôi sẽ bảo đảm tăng gấp 2 hoặc gấp 3 lần sản lượng (thông qua chương trình có 97 doanh nghiệp tham gia thì tất cả các doanh nghiệp này đều được chúng tôi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSaigon Coop.doc
  • pptPPT-Coop.ppt