Trước hết chúng ta phải hiểu doanh nghiệp là gì? Theo định nghĩa tại Luật Doanh Nghiệp 2005, “Doanh nghiệp” là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Hiện nay, khái niệm doanh nghiệp thường được dùng để chỉ các loại hình: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty hợp doanh thưộc các thành phần kinh tế.
Như vậy, Doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bộ phận của doanh nghiệp, là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa của nước mình. Việc đưa ra khái niệm “doanh nghiệp nhỏ và vừa” phụ thục vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mỗi nước và các chính sách của Chính Phủ. Các tiêu chí đưa ra để xác định doanh nghiệp có khác nhau và thường thay đổi theo thời gian. Vì vậy việc đưa ra tiêu chí xác định về doanh nghiệp nhỏ và vừa để Chính Phủ thực hiện thành công các chính sách hỗ trợ, quản lý đối với loại hình doanh nghiệp này, phát huy thế mạnh và giảm thiểu các hạn chế của nó là một việc làm được Chính Phủ các nước đặc biệt quan tâm.
Tiêu chí phổ biến thường được các nước sử dụng để xác định DNNVV là tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu chí định tính: Tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNNVV như mức độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý còn ở thấp…
92 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2358 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Bùi Vinh Quang
Sinh viên lớp: Kế Hoạch-46A
Mã số sinh viên: CQ462213
Trường đại học Kinh tế Quốc dân.
Tôi xin cam đoan rằng bài thực tập tốt nghiệp này là một công trình khoa học do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo- Th.s Bùi Đức Tuân. Trong thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch & Đầu tư, nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị ở đây tôi đã thu thập số liệu và các tài liệu cần thiết để hoàn thành luận văn này. Nội dung của bài thực tập tốt nghiệp này hoàn toàn chân thực nó phản ánh đúng sự cố gắng của tôi và sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo hướng dẫn, không sao chép trùng lặp với những luận văn khác. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những lời cam đoan của mình.
Sinh viên
Bùi Vinh Quang
Mục lục
Chương I: Doanh nghiệp nhỏ và vừa và sự cần thiết có chính sách, cơ chế hỗ trợ phát triển DNNVV. 7
1. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế 7
1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa. 7
1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hiện nay. 10
1.2.1 Ưu thế: 10
1.2.2 Hạn chế: 12
2. Sự cần thiết phải phát triển và quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. 14
2.1. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế. 14
2.2 Sự cần thiết phải phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. 22
2.3. Vai trò quản lý nhà nước đối với sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. 24
Chương II: Đánh giá tình hình phát triển và công tác quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ. 28
1. Quá trình hình thành phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ 28
1.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty (21/12/1990) 28
1.2. Từ khi ban hành Luật DNTN và Luật Công ty, đến khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực (1/1/2000) 30
1.3 Từ khi áp dụng thực hiện Luật doanh nghiệp (01/1/2000 đến nay) 32
2. Nguồn lực phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Tỉnh Phú Thọ. 33
2.1 Vị trí địa lý. 33
2.2 Tiềm năng và khả năng khai thác tiềm năng để phát triển DNNVV trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ 34
2.2.1 Đặc điểm địa hình: 34
2.2.2 Đặc điểm khí hậu: 35
2.2.3 Đất đai và nguồn nước. 36
2.2.4 Tài nguyên khoáng sản: 36
2.2.5 Tài nguyên rừng. 36
2.3 Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Phú Thọ trong những năm gần đây. 37
3. Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ. 45
3.1 Số lượng và quy mô 45
3.2. Kết cấu vốn doanh nghiệp theo mỗi loại hình doanh nghiệp. 49
3.3 Kết cấu, ngành nghề kinh doanh. 51
3.4 Tình hình sử dụng lao động và trả lương lao động. 51
3.5 Về năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh 53
3.6 Những đóng góp của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Phú Thọ trong thời gian vừa qua. 58
3.7 Những khó khăn tồn tại chủ yếu của các DNNVV trên địa bàn Tỉnh. 62
4. Công tác quản lý Nhà nước đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ. 67
4.1. Về tổ chức bộ máy, cán bộ quản lý nhà nước 68
4.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn. 68
4.2.1 Môi trường chính sách phát triển DNNVV trên địa bàn Tỉnh 68
4.2.2 Thực trạng công tác quản lý của nhà nước đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa 72
Chương III: Các định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh 76
1. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh. 76
1.1 Mục tiêu định tính. 76
1.2 Mục tiêu cụ thể. 77
2. Một số giải pháp nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ. 78
2.1 Hoàn thiện các chính sách, cơ chế hỗ trợ khuyến kích các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. 78
2.2 Đổi mới công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. 83
Lời nói đầu
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tạo ra những cơ sở pháp lý trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường với sự tham gia của thành phần kinh tế tư nhân đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã phát triển nhanh chóng.
Thực tế trong hơn 20 năm đổi mới và phát triển, doanh nghiệp nhỏ và vừa đã trở thành một bộ phận quan trọng, có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
Cùng với cả nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ có bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng, đặc biệt kể từ khi có luật doanh nghiệp (năm 2000) và nghị định 90 của chính phủ nhằm khuyến kích và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã làm nên sự khác biệt từ chỗ doanh nghiệp chỉ thành lập và hoạt động kinh doanh đối những ngành nghề, lĩnh vực nhà nước chỉ định, cho phép sang hoạt động trên tất cả các lĩnh vực mà nhà nước không cấm, từ đó đã giải phóng tư duy và sức sáng tạo về ý tưởng kinh doanh và phương thức tổ chức kinh doanh, số lượng doanh nghiệp và quy mô vốn đầu tư trực tiếp phát triển kinh doanh đã tiếp tục tăng nhanh, tạo thêm được hàng vạn chỗ làm và ổn định xã hội, bước đầu khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần, đóng góp nhiều hơn vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa còn phát triển chưa đồng bộ, còn nhỏ lẻ, làm ăn manh mún, công nghệ còn lặc hậu. Các doanh nghiệp phát triển chưa đồng bộ cả về vùng lãnh thổ, ngành nghề kinh doanh; đóng góp vào ngân sách nhà nước còn chiếm tỷ trọng thấp, phát triển chưa đồng đều giữa các vùng, mới tập trung vào các khu vực đô thị, các khu, các cụm công nghiệp. Ỏ nông thôn, các huyện miền núi số doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 30%. Đầu tư các ngành sản xuất đạt thấp( Chiếm khoảng 25%), chủ yếu hoạt động thương mại- du lịch và xây dựng. Hầu hết các doanh nghiệp chưa có thương hiệu, sản xuất kinh doanh có hiệu quả thấp(35%), thu nhập của người lao động và việc làm chưa ổn định. Kiến thức quản lý kinh tế của các chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, các chủ trang trại chưa đồng đều, chưa gắn được sản xuất kinh doanh với thị trường, khả năng nắm bắt thông tin thị trường còn nhiều hạn chế, chưa đủ mạnh để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
Về công tác quản lý Nhà nước cũng bộc lộ không ít những khó khăn vướng mắc nảy sinh, thiếu sự phối hợp giữa các cấp, các ngành đối với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể sau đăng ký kinh doanh, làm cho quản lý Nhà nước bị buông lỏng, từ đó dẫn tới sự phối hợp kém nhiệt tình, sự trì trệ trong quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp
Đặc biệt năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO ngoài những thuận lợi do mở cử thị trường đem lại thì doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn như phải đối mặt với những đối thủ lớn từ bên ngoài, Sức ép cạnh tranh từ bên ngoài là rất lớn, các doanh nghiệp phải chịu sức ép về giá cả, thương hiệu, mẫu mã…
Chính vì vậy để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể hội nhập kinh tế quốc tế tốt, có thể cạnh tranh được với các đối thủ bên ngoài, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động thì chúng ta phải có một định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để từ đó chúng ta có được một số biện pháp chính sách để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chính vì lý do đó tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ”.
Nội dung đề tài gồm có:
Chương I: Doanh nghiệp nhỏ và vừa – sự cần thiết có chính sách, cơ chế hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương II: Đánh giá tình hình phát triển và công tác quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
Chương III: Các định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh.
Tôi xin trân thành cảm ơn Th.S Bùi Đức Tuân, cùng các cô chú, anh chị trong Sở Kế hoạch & Đầu tư Phú Thọ đã tạo điều kiện và nhiệt tình hướng dẫn tôi hoàn thành bài viết này.
Do khả năng còn có hạn nên bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong sự góp ý và bổ sung của thầy cô và bạn đọc để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Chương I: Doanh nghiệp nhỏ và vừa và sự cần thiết có chính sách, cơ chế hỗ trợ phát triển DNNVV.
1. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế
1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trước hết chúng ta phải hiểu doanh nghiệp là gì? Theo định nghĩa tại Luật Doanh Nghiệp 2005, “Doanh nghiệp” là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Hiện nay, khái niệm doanh nghiệp thường được dùng để chỉ các loại hình: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty hợp doanh thưộc các thành phần kinh tế.
Như vậy, Doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bộ phận của doanh nghiệp, là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa của nước mình. Việc đưa ra khái niệm “doanh nghiệp nhỏ và vừa” phụ thục vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mỗi nước và các chính sách của Chính Phủ. Các tiêu chí đưa ra để xác định doanh nghiệp có khác nhau và thường thay đổi theo thời gian. Vì vậy việc đưa ra tiêu chí xác định về doanh nghiệp nhỏ và vừa để Chính Phủ thực hiện thành công các chính sách hỗ trợ, quản lý đối với loại hình doanh nghiệp này, phát huy thế mạnh và giảm thiểu các hạn chế của nó là một việc làm được Chính Phủ các nước đặc biệt quan tâm.
Tiêu chí phổ biến thường được các nước sử dụng để xác định DNNVV là tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu chí định tính: Tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNNVV như mức độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý còn ở thấp…
Tiêu chí định lượng: Đây là tiêu chí quan trọng nhằm lượng hóa các tiêu thức định tính nói trên. Tuy nhiên ở mỗi nước tùy vào hoàn cảnh, tính chất làng nghề, trình độ sản xuất, đường lối chính sách và chiến lược phát triển đất nước của nước đó mà có các tiêu thức định tính riêng.
Bảng 1: Tiêu thức phân loại DNNVV của một số nước APEC
Tên nước
Tiêu chí phân loại
Australia
Số lao động
Canada
Số lao động, doanh thu
Indonesia
Số lao động, tổng giá trị tài sản, doanh thu
Nhật Bản
Số lao động, vốn đầu tư
Malaysia
Doanh thu, tỷ lệ góp vốn
Mexico
Số lao động
Mỹ
Số lao động
Phillippines
Số lao động, tổng giá trị tài sản, doanh thu
Đài loan
Vốn đầu tư, tổng giá trị tài sản, doanh thu
Singapore
Số lao động, tổng giá trị tài sản
Nguồn: Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừa- Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
Bảng 2: Tiêu chí định lượng DNNVV ở một số nước
Nước
Loại hình DN
Số lao động
(người)
Tổng số vốn
Hoặc GTTS
Doanh số năm
CHLB Đức
DNNVV
<500
<100 triệu DM
Trong đó DN nhỏ
<= 9
<1 triệu DM
Australia
DNNVV
<500
Canada
DNNVV
<20 triệuUSD
Nhật Bản
DNNVV trong công nghiệp
<300
<300 triệu yên
DNNVV trong bán buôn
<100
<100 triệu yên
DNNVV trong bán lẻ
<50
<50 triệu yên
Hàn Quốc
DNNVV trong công nghiệp
<100
DNNVV trong dịch vụ
<20
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
Ở Việt Nam, không phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng hoặc số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 300 người được coi là doanh nghiệp nhỏ và vừa (không có tiêu chí xác định cụ thể đâu là doanh nghiệp siêu nhỏ, đâu là nhỏ, và đâu là vừa).
Như vậy, định nghĩa hiện tại về DNNVV không thể hiện thực sự phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp khác nhau khi đề cập đến một cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc khu vực DNNVV. Nói cách khác, một cơ sở sản xuất kinh doanh được coi là một doanh nghiệp dù cơ sở đó như một hộ kinh doanh cá thể hay đăng ký theo Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp và Luật Doanh nghiệp Nhà nước. Tất cả các thực thể kinh doanh này được coi là một “doanh nghiệp”. Điều này cũng phù hợp với định nghĩa quốc tế về Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
DNNVV như được định nghĩa ở trên không phải là một khối doanh nghiệp thuần nhất. Các doanh nghiệp này khá khác biệt về số lượng lao động cũng như khả năng tài chính, công nghệ và quản lý. Các DNNVV Việt Nam sử dụng cách phân loại doanh nghiệp dựa trên số lượng nhân công như sau:
Doanh nghiệp siêu nhỏ
< 10 lao động
Doanh nghiệp nhỏ
10-49 lao động
Doanh nghiệp vừa
50-299 lao động
Doanh nghiệp lớn
>300 lao động
1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hiện nay.
1.2.1 Ưu thế:
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhưng ưu thế chủ yếu sau:
Nhạy cảm, thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường.
Thông thường, các doanh nghiệp nhỏ và vừa năng động và linh hoạt hơn so với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất kinh doanh. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng đổi mới trang thiết bị kỹ thuật nhanh hơn, có khả năng thích ứng nhanh hơn với nhu cầu của thị trường. Khi thị trường biến động thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng dễ dàng thay đổi mặt hàng hoặc chuyển hướng kinh doanh.
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường sử dụng các loại máy móc công nghệ trung bình, đòi hỏi sử dụng nhiều lao động, đặc biệt trong lĩnh vực dệt, giầy da… Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ nhưng vẫn có điều kiện sử dụng các máy móc trang thiết bị hiện đại, năng suất cao đảm bảo chất lượng sản phẩm
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập dễ dàng vì vốn đầu tư ít: Do đó chúng tạo ra cơ hội đầu tư đối với nhiều người, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân trong nước dù ở điều kiện văn hóa giáo dục khác nhau đều có thể tìm kiếm được cơ hội lập nghiệp. Chính vì thế mà ở các nước phát triển, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng rất nhanh và chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong tổng số các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Sau khi thành lập, Doanh nghiệp nhỏ và vừa sớm đi vào hoạt động và có khả năng thu hồi vốn nhanh. Ở các nước phát triển( Mỹ, Anh, Singgapo) cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa hàng năm có khấu hao đến 50% giá trị tài sản cố định và thời gian hoàn vốn không quá 2 năm. Ở các nước đang phát triển, việc thu hồi vốn cũng tương đối nhanh, tùy thuộc vào khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp và đặc điểm từng lĩnh vực kinh doanh cũng như chính sách khấu hao tài sản cố định của Nhà nước…
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa có diện tích nhỏ, đòi hỏi về cơ sở hạ tầng không quá cao. Vì thế nó có thể được đặt nhiều ở nhiều nơi trong nước, từ thành thị cho tới nông thôn, miền núi và hải đảo… Đó chính là đặc điểm quan trọng nhất của doanh nghiệp nhỏ và vừa để có thể giảm bớt luồng chảy lao động tập trung vào các thành phố, để tiến hành công nghiệp hóa nông thôn.
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng thu hút lao động với chi phí thấp do đó tăng hiệu suất sử dụng vốn. Đồng thời do tính chất dễ dàng thu hút lao động nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần đáng kể tạo công ăn việc làm, giảm bớt thấp nghiệp cho xã hội.
Ngoài ra, các DNNVV còn có ưu thế ở chỗ quan hệ giữa người sử dụng và người lao động gần gũi, than thiện hơn so với các doanh nghiệp lớn. Sự trì trệ, thua lỗ, phá sản của các DNNVV có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế- xã hội, đồng thời các DNNVV ít bị ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng kinh tế.
1.2.2 Hạn chế:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ nên có các hạn chế sau:
Chủ doanh nghiệp thường thiếu kiến thức, kinh nghiệm kinh doanh và rất bỡ ngỡ trước thị trường, nhất là thị trường ngoài nước, khả năng tiếp thị yếu kém, có quy mô nhỏ bé phân tán, vì lẽ đó năng suất lao động thường thấp hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn và so với các doanh nghiêpj nhỏ và vừa của thế giới và khu vực, sự hình thành và ra đời phần lớn theo tính tự phát, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế hạn chế, khả năng tích tụ không đáng kể. Do không đủ sức cạnh tranh, khả năng điều hành, kinh nghiệm và trình độ kinh doanh của chủ doanh nghiệp yếu kém, nhiều doanh nghiệp mới thành lập nhưng không tìm kiếm được thị trường hoặc phương hướng trong sản xuất kinh doanh nên đã rơi vào tình trạng phá sản hoặc tuyên bố chấm dứt hoạt động.
Trình độ phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp cả về công nghệ, kỹ năng lao động và quản lý, chưa đủ trình độ vươn ra các địa bàn khác cả trong nước và ngoài. Các doanh nghiệp này thường đầu tư manh mún lại rất dàn trải, tình trạng phổ biến là một doanh nghiệp kinh doanh nhiều ngành nghề, dẫn đến không chuyên sâu một ngành nghề nào, ít có nhiều ngành nghề, dẫn đến không chuyên sâu một ngành nghề nào, ít có sản phẩm truyền thống, gây được ấn tượng mạnh trên thị trường. Trình độ chuyên môn hóa sản xuất chưa cao, thể hiện rõ nhất là loại hình một chủ chiếm ưu thế. Sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau và với các doanh nghiệp lớn khác còn hạn chế.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào những vùng mà cơ sở hạ tầng thuận lợi, dân cư đông đúc, thành phố, thị xã, các khu công nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường quan tâm đến lợi ích cá nhân, lợi ích trước mắt, ít chú ý đến lợi ích cộng đồng, thường tập trung kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ- thương mại, xây dựng, đầu tư vào sản xuất chỉ có 20-25% đầu tư vào sản xuất, ngoài lý do sản xuất kinh doanh tự phát, còn thiếu sự hỗ trợ định hướng của Nhà nước nên nhiều doanh nghiệp tuy có khả năng vốn, chất xám… nhưng chưa biết sản xuất cái gì, tiêu thụ sản phẩm ở đâu nên không dám đầu tư.
Doanh nghiệp thường khó có khả năng tìm kiếm được các nguồn vốn ngân hàng vì bản thân nó thiếu tài sản thế chấp, khó xây dựng được các phương án kinh doanh…
Kiến thức pháp luật của phần lớn các chủ doanh nghiệp còn hạn chế, dẫn tới tình trạng có nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật trong kinh doanh, chấp hành nghĩa vụ với Nhà nước chưa nghiêm, hiện tượng trốn thuế khá phổ biến và có xu hướng gia tăng. Các thủ đoạn trốn thuế dưới nhiều hình thức như: Không đăng ký kinh doanh, không đăng ký và kê khai nộp thuế, hoặc xin nghỉ kinh doanh nhưng vẫn hoạt động, khai giảm doanh số, để ngoài sổ sách nhiều khoản thu, lập hệ thống sổ sách, chứng từ giả; Khai tăng chi phí và giảm giá bán, thông đồng với các cơ quan có liên quan ( thuế, hải quan) để chậm nộp thuế, kéo dài thời gian để nộp thuế để chiếm dụng tiền thuế. Tình trạng làm hàng giả, nhái kiểu dáng nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, vi phạm bản quyền, vi phạm chế độ sử dụng lao động, kinh doanh không đúng nội dung đăng ký diễn ra khá phổ biến. Tình trạng kinh doanh “Chộp giật”, lừa đảo, kinh doanh hàng cấm, cho thuê, cho mượn giấy chứng nhận ĐKKD ở các doanh nghiệp này vần thường xảy ra, làm mất lòng tin trong cộng đồng doanh nghiệp và xã hội.
2. Sự cần thiết phải phát triển và quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2.1. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế.
DNNVV có vị trí vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Trong bối cảnh toàn cầu hóa gay gắt như hiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm huy động tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy vị trí, vai trò của DNNVV đã được khẳng định. Về số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm ưu thế tuyệt đối: khoảng 98% ở