Hiên nay có rất nhiều các quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán nhưng quan điểm đầy đủ và rõ ràng nhất, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay: TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính và là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hóa và dich vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia, việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định.
Chứng khoán được hiểu là các giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép các chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập hoặc quyền sở hữu.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp hoặc thị trường thứ cấp. Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động chủ động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
50 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 9762 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.
I. Những vấn đề chung về lý thuyết. 3
1. Thị trường chứng khoán (TTCK). 3
1.1. Khái niệm 3
1.2. Các chủ thế trên TTCK 3
a. Chủ thể phát hành. 3
b. Nhà đầu tư…………………………………………………………………3
c. Các tổ chức kinh doanh trên TTCK 4
d. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 4
2. Ngân hàng thương mại (NHTM). 5
2.1. Khái niệm 5
a. Các hình thức ngân hàng thương mại hoạt động trên thị trường chứng khoán. 6
b. Ngân hàng thương mại đa năng một phần 6
c. Ngân hàng thương mại đa năng toàn phần 7
3. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán 8
3.1. Phát hành chứng khoán 8
a. Phát hành công cụ nợ 8
b. Phát hành cổ phiếu 10
3.2. Tư vấn đầu tư chứng khoán. 10
3.3. Môi giới chứng khoán 11
3.4. Bảo lãnh phát hành chứng khoán 13
3.5. Lưu kí và thanh toán bù trừ 14
a. Lưu kí chứng khoán 14
b. Thanh toán bù trừ chứng khoán 15
3.6. Tự doanh chứng khoán 16
3.7. Thực hiện chứng khoán phái sinh. 17
a. Hợp đồng kỳ hạn: 18
b. Hợp đồng tương lai: 18
c. Hợp đồng quyền chọn: 19
d. Công cụ hoán đổi (SWAP:) 20
3.8. Cho vay chứng khoán. 20
3.9. Cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán 21
4. Vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán: 21
II. Thực trạng hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam 23
1. Hoạt động phát hành chứng khoán. 23
1.1. Phát hành trái phiếu 23
1.2. Phát hành cổ phiếu 25
2. Tư vấn chứng khoán. 27
3. Môi giới chứng khoán 29
4. Bảo lãnh phát hành chứng khoán 32
5. Lưu kí , thanh toán bù trừ chứng khoán 34
5.1. Lưu kí chứng khoán 34
5.2. Thanh toán bù trừ chứng khoán 34
6. Tự doanh chứng khoán 36
7. Thực hiện chứng khoán phái sinh. 38
8. Cho vay đầu tư chứng khoán. 40
Kết luận chung về hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 42
III. Giải pháp nâng cao hoạt động của NHTM trên TTCK 43
1. Hoàn thiện cơ sở pháp lí cho hoạt động của NHTM trên TTCK 43
2. Nâng cao vai trò cầu nối của các Công ty chứng khoán của các NHTM 44
3. Nâng cao tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương mại 45
a. Cổ phần hóa các NHTMNN 45
b. Tạo điều kiện cho các NHTM cổ phần mở rộng quy mô vốn 46
4. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng 47
5. Nâng cao trình độ nhân sự 47
Những vấn đề chung về lý thuyết.
Thị trường chứng khoán (TTCK).
Khái niệm
Hiên nay có rất nhiều các quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán nhưng quan điểm đầy đủ và rõ ràng nhất, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay: TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính và là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hóa và dich vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia, việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định.
Chứng khoán được hiểu là các giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép các chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập hoặc quyền sở hữu.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp hoặc thị trường thứ cấp. Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động chủ động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Các chủ thế trên TTCK
Chủ thể phát hành.
Chủ thể phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hóa của thị trường chứng khoán.
Bao gồm: Chính phủ,các doanh nghiệp và một số tổ chức khác: các quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian…
Nhà đầu tư.
Nhà đầu tư là những người có tiền, những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại là nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
Nhà đầu tư cá nhân: là những cá nhân và hộ gia đình, có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lời.
Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. (các tổ chức này mua bán chứng khoán không vì lợi ích của chính họ mà vì lợi ích của những người góp tiền vào quỹ đó)
Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán là các quỹ đầu tư, quỹ tương hỗ, quỹ lương hưu, quỹ bảo hiểm xã hôi khác
Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
Các công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong kĩnh vực CK, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ tài chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại
Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK do Chính phủ thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, an toàn và phát triển bền vững
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường chứng khoán thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và Ủy ban chứng khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Các tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
Các tổ chức tài trợ chứng khoán là các tổ chức được thành lập với mục đích mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động như cho vay tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng.
Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài chính của các tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết.
Ngân hàng thương mại (NHTM).
Khái niệm
Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở mỗi nước có một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở Mỹ: ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và họat động trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn khác…
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Tuy nhiên, với sự phát triển của thị trường tài chính, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam có xu hướng mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực ngân hàng đầu tư nhằm vận dụng tối đa hóa các mối quan hệ khách hàng, nguồn nhân lực dồi dào với kiến thức, kĩ năng tài chình chuyên sâu và cơ sở vật chất sẵn có, đặc bệt khi thị trường chứng khoán Việt Nam có những bước phát triển thì hình thức hoạt động này lại càng phổ biến.
Các hình thức ngân hàng thương mại hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Ngân hàng thương mại chuyên doanh
Ngân hàng thương mại chuyên doanh là hình thức ngân hàng thương mại chỉ hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ với các hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Ngân hàng thương mại đa năng một phần
Ngân hàng thương mại đa năng một phần là hình thức mà các ngân hàng thương mại nếu muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập một công ty con trực thuộc ngân hàng thương mại hạch toán độc lập và tách rời hoạt động kinh doanh tiền. Mô hình này được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Anh. .
Mô hình này có ưu điểm các ngân hàng được kết hợp kinh doanh ngân hàng và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng được thế mạnh về tài chính, kinh nghiệm, mạng lưới khách hàng rộng khắp của ngân hàng. Bên cạnh đó, bởi vì có quy định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên cho nên hạn chế được rủi ro nếu có sự biến động của mộ trong hai thị trường. Đặc biệt, mô hình này phù hợp với những nước mới thành lập thị trường chứng khoán khi mà cần có tổ chức tài chính lành mạnh tham gia vào thị trường và khi hệ thống luật, kiểm soát… còn nhiều mặt hạn chế.
Ví dụ: công ty chứng khoán ngân hàng Đông Á, công ty chứng khoán ngân hàng ngoại thương Việt Nam…
Công ty trực thuộc của ngân hàng thương mại là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập bằng vốn tự có mà ngân hàng thương mại:
a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông đã phát hành của công ty đó; hoặc
b) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp bổ nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty đó; hoặc
c) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của công ty đó.
Ngân hàng thương mại đa năng toàn phần
Ngân hàng thương mại đa năng toàn phần là hình thức ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính khác. Mô hình này được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Đức.
Mô hình này có ưu điểm đó là giảm bớt rủi ro trong kinh doanh bằng cách đa dạng hóa đầu tư, tăng khả năng chịu dựng của ngân hàng trước những biến động về tài chính.
Tuy nhiên, mô hình này cũng có nhược điểm là khă năng chuyên môn không sâu trong từng lĩnh vực; khó tách bạch hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán, dễ gây lũng đoạn thị trường; ngoài ra còn không có sự tách biệt giữa các nguồn vốn.
Trên thực tế, ở Việt Nam chỉ tồn tại hai hình thức ngân hàng hoạt động trên thị trường chứng khoán là ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng một phần.
Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
Phát hành chứng khoán
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh, cũng cần có vốn để hoạt động.Vốn của ngân hàng thương mại có thể hình thành từ nhiều nguồn. Một nguồn vốn quan trọng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường là nguồn vốn huy đông trên thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành chứng khoán.
Trong qúa trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, ngân hàng thấy cần phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy hấp dẫn. Điều đó có nghĩa là ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, có nghĩa là có đầu ra mới tính đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy động, loại tiền huy động và đưa ra các mức chi phí hợp lý làm cho việc tạo vốn của ngân hàng thành công nhanh chóng.
Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành các công cụ nợ như các chứng chỉ tiền gửi (CDs), kì phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng. Đối với các ngân hàng mại cổ phần có thể huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu.
Phát hành công cụ nợ
Thông qua việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ: kì phiếu, trái phiếu ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi, NH có thể huy động được vốn ngắn hạn còn phát hành các công cụ nợ trên thị trường vốn để huy động vốn trong trung và dài hạn.
Kỳ phiếu: kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế.
Chứng chỉ tiền gửi là văn bản do ngân hàng phát hành để chứng nhận rằng người sở hữu văn bản đã gửi tiền vào ngân hàng. Chứng chỉ tiên gửi thực chất là lời hứa trả một lượng tiền nhất định cho người sở hữu nó vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of deposit / CDs/ CD) là một loại Giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành để huy động vốn từ các tổ chức và cá nhân khác. Ở Mỹ và Anh, nó là loại trái phiếu "có thể trao đổi", nghĩa là có thể chuyển nhượng đơn giản bằng cách trao cho người mua. Vì vậy, chúng có khả năng thanh toán cao đối với người sở hữu, đồng thời đảm bảo nguồn vốn cho ngân hàng trong một thời gian. Lãi suất của chứng chỉ tiền gửi được trả sáu tháng một lần nếu chứng chỉ tiền gửi có thời hạn trên 1 năm và được trả khi đúng hạn nếu có thời hạn dưới một năm. Chứng chỉ tiền gửi áp dụng lần đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm 60, sau đó được lưu hành ở Anh.
Trái phiếu ngân hàng là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của khách hàng đối với người chủ ngân hàng với những cam kết như thanh toán một số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước. Ngân hàng thương mại khi có nhu cầu huy động vôn với số lượng lớn có thể phát hành trái phiếu trung và dài hạn. Để thu hút các nhà đầu tư và chiều theo thị hiếu khách hàng có nhiều loại trái phiếu của ngân hàng thương mại đã ra đời như: trái phiếu có lãi suất chuyển đổi, trái phiếu chiết khấu, trái phiếu có thể chuyển đổi, trái phiếu có lãi suất cố định. Đối với ngân hàng thương mại có sẵn chuyên môn và cơ sở vật chất, viêc phát hành trái phiếu để huy động vốn được xem như giải pháp có tính hiệu quả.
Phát hành cổ phiếu
Ngoài ra, đối với các ngân hang thương mại cổ phần để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung trong quá trình hoạt động có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu.
NHTM cổ phần là ngân hàng hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần, vốn hoạt động do công cổ đông đóng góp, trong đó các cổ đông có thể là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, cá nhân cùng góp vốn theo quy định của nhà nước.
Cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tở chức phát hành. Ngân hàng có thể phát hành 2 loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Có thể thấy với tính chuyên nghiệp cao và uy tín lớn trên thị trường tài chính cộng với các mối quan hệ rộng rãi, hoạt động phát hành chứng khoán của ngân hàng thương mại có nhiều lợi thế hơn so với các doanh nghiệp thông thường khác. Bên cạnh đó việc có thể tự đứng ra phát hành chứng khoán không phải thông qua các trung gian phân phối, bảo lãnh phát hành cũng giúp ngân hàng thương mại giảm chi phí huy động vốn. Do vậy chứng khoán do ngân hàng thương mại phát hành đẽ dàng được chấp nhận hơn so vơi các doanh nghiệp khác.
Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc các công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Theo đối tượng của hoạt động tư vấn, có thể chia thành tư vấn cho người phát hành và tư vấn đầu tư.
Tư vấn phát hành: tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành về cách thức, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ…
Tư vấn đầu tư: tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán…
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn:
Không đảm bảo chắc chắn về giá trị của chứng khoán.
Luôn nhắc nhở khách hàng là những lời mình tư vấn dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lí thuyết và diễn biến trong quá khứ, có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng mới là người quyết định cuối cùng.
Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó. .
Một trong những trở ngại quan trọng đối với thị trường tài chính là vấn đề thông tin không cân xứng, sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Với chức năng là thủ quỹ doanh nghiệp, thực hiện kiểm soát và giám sát bằng đồng tiền đối với nền kinh tế quốc dân, NHTM có đặc quyền về việc thu thập các thông tin về các doanh nghiệp có phát hành chứng khoán qua mối quan hệ lâu năm rất sâu sát trong quan hệ tín dụng, thanh toán. Từ đó có thể phân tích mọi mặt sản xuất kinh doanh, các nguồn tài trợ và cả xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nguồn thông tin này là cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc phân tích và đánh giá doanh nghiệp, định giá chứng khoán, từ đó có thể thực hiện việc tư vấn đầu tư cho khách hàng một cách nhanh chóng hiệu quả.
Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán. Nhà MGCK thường tư vấn cho khách hàng của mình trong những giao dịch chứng khoán; phân tích và giải thích cho thân chủ về phương thức hoạt động của thị trường CK, thu thập thông tin để giúp họ có sự đầu tư tốt nhất. Khi được uỷ thác giao dịch, nhà MGCK liền liên lạc với sàn giao dịch thông qua mạng internet hay mạng điện thoại.
Khi giao dịch được tiến hành, nhà môi giới thông báo tên người giao dịch và giá cả giao dịch. Người mua sẽ trả tiền cho cố phiếu họ đã mua và nhà môi giới tiến hành thông tin cho người mua về mã số của cổ phiếu. Sau đó hai bên kết thúc giao dịch.
Với các NHTM, công ty chứng khoán thuộc ngân hàng sẽ đảm trách dịch vụ này và mang lại cho ngân hàng những lợi nhuận từ lệ phí giao dịch hay hoa hồng giao dịch rất lớn. Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng có những ưu thế hơn so với các công ty chứng khoán khác trong nghiệp vụ môi giới vì:
Thứ nhất, Ngân hàng đã có mối quan hệ sâu sắc với các doanh nghiệp qua việc tín dụng thanh toán, nắm được các thông tin cần thiết cho việc môi giới chứng khoán, tạo được uy tín với khách hàng.
Thứ hai, Ngân hàng đã có sẵn cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật một mạng lưới chi nhánh, đại lý rộng khắp sẵn sàng phục vụ mọi yêu cầu của nhà đầu tư.
Thứ ba, Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn về kinh doanh tiền tệ liên quan chặt chẽ và gần gũi với nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại, hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành, hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng.
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ chứng khoán phát hành, cho dù có phân phối hết hay không.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán, mà cam kết sẽ cố gắng hết mức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng phần không phân phối hết sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không bán gì: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành nếu không bán hết số chứng khoán thì huỷ bỏ toàn bộ đợt phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức bảo lãnh trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả