Từ khi nền kinh tếnước ta chuyển sang nền kinh tếthịtrường, đặc biệt là từ
sau khi pháp lệnh vềngân hàng ởnước ta ra đời (1990) thì ngành ngân hàng cũng có 
sựchuyển đổi căn bản từhệthống ngân hàng là một cấp sang hệthống ngân hàng 
hai cấp. Sựxuất hiện hàng loạt ngân hàng thương mại trong nước và sưxâm nhập 
thịtrường của các ngân hàng liên doanh chi nhánh và văn phòng đại diện của các 
ngân hàng nước ngoài đã làm cho môi trường kinh doanh ngân hàng nước ngoài đã 
làm cho môi trường kinh doanh ngân hàng ởnước ta “nóng” dần lên và thịphần của 
các ngân hàng thương mại trong nước ngày càng bịthu hẹp. Bên cạnh đó, do sựyếu 
kém trong kinh doanh, cơchếchính sách thiếu đồng bộvà còn nhiều bất hợp lý đã 
gây nên tình trạng thất thoát vốn nghiêm trọng, nợkhó đòi gia tăng. Điều này đã đẩy 
các ngân hàng thương mại của nước ta vào trạng thái né tránh, co cụm trong kinh 
doanh trong khi đó lượng vốn vay lại bị ứ đọng nhiều (năm 1999 sốlượng vốn vay 
bị ứ đọng ởcác ngân hàng tăng 20% so với năm 1998). Trước những khó khăn đó, 
đểkhai thông những bếtắc và đưa hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thoát 
khỏi tình trạng trì trệ, yếu kém, nâng cao sức cạnh tranh, các nhà quản trịngân hàng 
ởnước ta đã nhận thấy vai trò quan trọng của Marketing nên đã từng bước chuyển 
hướng kinh doanh theo triết lý Marketing và đã đạt được những kết quảnhất định. 
Tuy nhiên do nó còn mới mẽ đối với các ngân hàng vềcảlý luận lãn thực tiễn nên 
việc ứng dụng Marketing trong kinh doanh còn nhiều yếu kém và chưa tương xứng 
với tiầm quan trọng của nó. Xuất phát từtình hình đó, đểgóp phần nâng cao hiệu 
quảcủa việc ứng dụng Marketing trong hoạt động kinh doanh ởcác ngân hàng 
thương mại của nước ta, em đã chọn đềtài “Hoạt động Marketing trong lĩnh vực 
ngân hàng ởViệt Nam , thực trạng và giải pháp” cho bài viết về đềtài nghiên cứu 
khoa học của mình.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4091 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động Marketing trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
ĐỀ TÀI 
“Hoạt động Marketing trong lĩnh vực 
ngân hàng ở Việt Nam , thực trạng và 
giải pháp” 
 Giáo viên hướng dẫn : 
 Sinh viên thực hiện : 
 1
LỜI MỞ ĐẦU 
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là từ 
sau khi pháp lệnh về ngân hàng ở nước ta ra đời (1990) thì ngành ngân hàng cũng có 
sự chuyển đổi căn bản từ hệ thống ngân hàng là một cấp sang hệ thống ngân hàng 
hai cấp. Sự xuất hiện hàng loạt ngân hàng thương mại trong nước và sư xâm nhập 
thị trường của các ngân hàng liên doanh chi nhánh và văn phòng đại diện của các 
ngân hàng nước ngoài đã làm cho môi trường kinh doanh ngân hàng nước ngoài đã 
làm cho môi trường kinh doanh ngân hàng ở nước ta “nóng” dần lên và thị phần của 
các ngân hàng thương mại trong nước ngày càng bị thu hẹp. Bên cạnh đó, do sự yếu 
kém trong kinh doanh, cơ chế chính sách thiếu đồng bộ và còn nhiều bất hợp lý đã 
gây nên tình trạng thất thoát vốn nghiêm trọng, nợ khó đòi gia tăng. Điều này đã đẩy 
các ngân hàng thương mại của nước ta vào trạng thái né tránh, co cụm trong kinh 
doanh trong khi đó lượng vốn vay lại bị ứ đọng nhiều (năm 1999 số lượng vốn vay 
bị ứ đọng ở các ngân hàng tăng 20% so với năm 1998). Trước những khó khăn đó, 
để khai thông những bế tắc và đưa hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thoát 
khỏi tình trạng trì trệ, yếu kém, nâng cao sức cạnh tranh, các nhà quản trị ngân hàng 
ở nước ta đã nhận thấy vai trò quan trọng của Marketing nên đã từng bước chuyển 
hướng kinh doanh theo triết lý Marketing và đã đạt được những kết quả nhất định. 
Tuy nhiên do nó còn mới mẽ đối với các ngân hàng về cả lý luận lãn thực tiễn nên 
việc ứng dụng Marketing trong kinh doanh còn nhiều yếu kém và chưa tương xứng 
với tiầm quan trọng của nó. Xuất phát từ tình hình đó, để góp phần nâng cao hiệu 
quả của việc ứng dụng Marketing trong hoạt động kinh doanh ở các ngân hàng 
thương mại của nước ta, em đã chọn đề tài “Hoạt động Marketing trong lĩnh vực 
ngân hàng ở Việt Nam , thực trạng và giải pháp” cho bài viết về đề tài nghiên cứu 
khoa học của mình. Mục tiêu của bài viết là xuất phát từ những đặc điểm chung về 
hoạt động Marketing trong ngành ngân hàng và athựuc trạng ứng dụng Marketing ở 
các ngân hàng thương mại của Việt Nam để tìm ra những giải pháp giúp cho các nhà 
quản trị ngân hàng nâng cao hiệu quả việc ứng dụng Marketing trong lĩnh vực kinh 
doanh của mình. 
 2
Để thực hiện được mục tiêu này em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả 
và chủ yếu là dựa vào những dữ liệu thứ cấp để tìm ra những tồn tại và yếu kém 
trong hoạt động Marketing của các ngân hàng ở nước ta, từ đó đưa ra những giải 
pháp mang tính chất cá nhân của mình. 
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn thị Tâm đã tận tình giúp đỡ, hướng 
dẫn để em hoàn thành được bài viết này. Với trình độ còn nhiều hạn chế, lại ít hiểu 
biết về ngân hàng nên chắc chắn bài viết không tránh khỏi những yếu kém và thiếu 
sót. Em mong được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của các thầy cô giáo để em được 
tiến bộ hơn trong những bài viết sau này. 
 Sinh viên thực hiện 
 Lê Văn Cần 
 3
CHƯƠNG I. BẢN CHẤT CỦA MARKETING TRONG 
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG 
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA MARKETING TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG 
1. Lịch sử của việc áp dụng Marketing trong ngành ngân hàng trên thế giới 
Cách đây không lâu, trong con mắt công chúng hình ảnh ngân hàng như là 
“ngôi diện tiền bạc”, là “két sắt giữ tiền” không hơn không kém. Hoạt động của 
ngân hàng đối với khách hàng như là sự giúp đỡ, ban ơn. Khi tiến hành giao dịch với 
ngân hàng khách hàng phải chịu không ít điều phiền toái, họ chờ đợi với thời gian 
dài trong điều kiện không lấy gì làm dễ chịu. 
Và trong những công ty sản xuất vật chất khác đã áp dụng Marketing một cách 
thành công và thu được nhiều thành quả lớn thì các nhà quản trị ngân hàng vẫn đang 
say sưa với nghiệp vụ của mình mà không chú ý đến nhu cầu của khách hàng cũng 
như xã hội mong muốn của họ. Thế nhưng khi môi trường kinh doanh thay đổi, cạnh 
tranh ngày càng mạnh mẽ và các ngân hàng hoạt động ngày càng kém hiệu quả thì 
các nhà quản trị mới chú trọng tới Marketing và cho đến tận những năm 20 của thế 
kỷ 20 thì Marketing mới thực sự đi vào ngân hàng. Tuy nhiên không phải ngay từ 
đầu các nhà quản trị ngân hàng đã hiểu biết về Marketing một cách đúng đắn và đầy 
đủ mà sự nhận thức của họ về Marketing chỉ thực sự được hoàn thiện dần qua 5 giai 
đoạn ứng dụng Marketing vào kinh doanh ngân hàng một cách “thận trọng và dè 
dặt”. 
Giai đoạn 1: Marketing là quảng cáo, khuyến mại và tuyên truyền 
Ở giai đoạn này khi các ngân hàng gặp sự cạnh tranh mạnh mẽ thì họ mới bắt 
đầu nhận ra vai trò của Marketing nhưng nó mới chỉ dược nhìn nhận dưới hình thức 
“Khái niệm về sự quảng cáo và khuyến mại” mà không phải dưới hình thức “quan 
điểm Marketing”. Hoạt động Marketing chỉ diến ra dưới dạng quảng cáo và khuyến 
mại một cách mạnh mẽ bằng cách tặng cho khách hàng những món quà hấp dẫn để 
thu hút khách hàng và các đối thủ cạnh tranh cũng bắt đầu áp dụng những phương 
pháp này. 
 4
Giai đoạn 2: Marketing là nụ cười và bầu không khí niềm nở: 
Để giữ được khách hàng, ngân hàng bắt đầu đề ra các chủ trương làm vui lòng 
khách hàng, chủ và nhân viên ngân hàng đã học cách mỉm cười, sự ngăn cách giữa 
nhân viên ngân hàng và khách hàng dần được rút ngắn, nội thất của ngân hàng được 
bố trí và thiết kế lại để tạo ra không khí ấm cúng và thân thiện cho khách hàng. 
Giai đoạn 3: Các ngân hàng đã đi sâu hơn vào việc ứng dụng Marketing bằng 
hoạt động phân khúc thị trường, lựa chọn cho mình những khúc thị trường và luôn 
đổi mới sản phẩm trên từng khúc thị trường mục tiêu nhằm giữ vị trí tiên phong so 
với các ngân hàng khác. 
Giai đoạn 4: Marketing là xác định vị trí: 
Diễn đàn các ngân hàng đều thực hiện quảng cáo, mỉm cười và đều thực hiện 
phân khúc thị trường và đổi mới do đó họ có những dáng vẽ rất giống nhau và khách 
hàng rất khó phân biệt được các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp. Ngân hàng đã 
nhận thức rằng không thể cung cấp được tất cả các chủng loại sản phẩm và trở thành 
ngân hàng tốt nhất đối với tất cả các khách hàng. Do vậy ngân hàng phả soát lại 
những cơ hội của mình và tiền hàng “chiếm lĩnh một vị trí” trên thị trường nhằm 
khắc sâu hình ảnh ngân hàng trong tâm trí khách hàng và làm cho khách hàng thấy 
được sự khác hẳn của ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh. 
Giai đoạn 5: Marketing là phân tích, lập kế hoạch và kiểm tra Marketing 
Đây là quan niệm sâu hơn, hoàn thiện hơn về Marketing của ngân hàng, ngân 
hàng đã cảm thấy nhức nhối khi thấy rằng mình đã không tiến hành được nghiên cứu 
Marketing để lượng định tiềm năng của các thị trường khác nhau, để đòi hỏi phải có 
kế hoạch Marketing, để xác định hạn mức và phát triển những hệ thống khen thưởng 
thích hợp trong quản lý. 
Qua 5 giai đoạn phát triển về nhận thức Marketing trong kinh doanh ngân hàng 
đã chứng tỏ rằng trong môt thời gian dài Marketing không được các nàh quản trị 
ngân hàng trên thế giới chú trọng một cách đúng mức. Sự bàng quan về Marketing 
và biệc áp dụng nó vào kinh doanh một cách chậm trễ hạn chế hiệu quả kinh doanh 
của các ngân hàng. Thế nhưng khi môi trường kinh doanh troẻ nên khắc nghiệt, đầy 
 5
biến động, sự cạnh tranh gia tăng thì các ngành quản trị ngân hàng đã nhận thấy rõ 
tính chất sống còn của việc chuyển hướng kinh doanh theo triết lý Marketing và 
quan điểm về Marketing ngày càng được hoàn thiện hơn. 
2. Những thách thức mà các ngân hàng phải đối mặt trong thời gian gần đây: 
- Thị phần của các ngân hàng ngày càng bị thu hẹp do các nguyên nhân: 
+ Sự xuất hiện một cách ồ ạt ngân hàng mới 
+ Sự vươn ra khỏi biên giới của các ngân hàng lớn (sự toàn cầu hoá) đặc biệt là 
các ngân hàng phương tây, Mỹ, Nhật Bản 
+ Sự xuất hiện nhiều tổ chức phi chính phủ ngân hàng 
- Sự đe doạ của các sản phẩm thay thế 
- Sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, công nghệ đòi hỏi các ngân hàng 
phải hiện đại hoá công nghệ của mình 
- Các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực thường xuyên xảy ra làm cho 
nền kinh tế thế giới đầy biến động 
- Nhu cầu của người tiêu dùng về dịch vụ ngân hàng ngày càng cao và 
thường xuyên biến đổi 
- Nhiều chiến lược cạnh tranh mới ra đời: cạnh tranh theo quy mô (sáp 
nhập, hợp nhất), cạnh tranh về công nghệ... 
Những thách thức trên đây đã làm cho hoạt động ngân hàng gặp không ít khó 
khăn. trên thực tế nhiều ngân hàng do còn duy trì phương thức kinh doanh lạc hậu 
đã đi tới phá sản hoặc kinh doanh kém hiệu quả phải sáp nhập, hợp nhất với các 
ngân hàng khác hoặc bị các tổ chức tài chính lớn mua lại. Ngay như những cường 
quốc ngân hàng là Mỹ và các nước Tâu Âu cũng có những sự đổ vỡ, xáo trộn trong 
hệ thống ngân hàng. Một cường quốc về ngân hàng như Nhật Bản cũng không tránh 
khỏi điều này cụ thể ngân hàng Dalwa bank đã bị sụp đổ vào cuối năm 1999, ngân 
hàng Nippow cũng bị phá sản vào đầu năm nay, hai ngân hàng là Bank of Tokyo và 
Missubishi do kinh doanh kém hiệu quả nên đã tiến hành sáp nhập với nhau. Đặc 
biệt 3 ngân hàng lớn của Nhật Bản là Daiichi Kangyo Bank, Fụi Bank và Unduztrial 
 6
Bank đang có kế hoạch hợp nhất với nhau thành một siêu ngân hàng có tene gọi là 
Mizuho Holding Group nhằm tăng cường sức cạnh tranh trên toàn cầu. 
Từ những thực tế này buộc các ngân hàng phải tiền hành hiện đại hoá phương 
thức kinh doanh của mình và hơn bào giờ hêts Marketing trở thành công cụ cực kỳ 
quan trọng trong kinh doanh ngân hàng. 
II.BẢN CHẤT CỦA MARKETING TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH NGÂN HÀNG 
1.Những nét đặc thù trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 
1.1.Đặc điểm về sản phẩm 
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, một loại hàng hoá đặc biệt. Sản 
phẩm của ngân hàng chính là những dịch vụ liên quan đến tiền tệ mà ngân hàng 
cung cấp cho khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của họ. Do vậy, sản phẩm của ngân 
hàng mang đầy đủ tính chất của sản phẩm dịch vụ và có những đặc điểm chính sau: 
- Sản phẩm mang hình thái phi vật chất 
- Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời 
- Sản phẩm của ngân hàng khó được phân biệt, nhận biết ngay về lợi 
ích, công dụng của chúng. 
- Mức độ đồng nhất của sản phẩm là cao 
- Sản phẩm của ngân hàng ngày càng được đa dạng hoá, hàng loại các 
dịch vụ mới mới ra đời. 
1.2.Đặc điểm về khách hàng . 
Khách hàng của ngân hàng rất đa dạng và phong phú, nó bao gồm các tầng lớp 
dân cư, các tổ chức kinh tế, chính trị và đặc biệt các ngân hàng cũng trở thành khách 
hàng của nhau... Ngày nay các ngân hàng đang tiến hành đa dạng hoá dịch vụ của 
mình nên số lượng khách hàng của ngân hàng ngày càng tăng lên một cách nhanh 
chóng. Tuy nhiên khách hàng của ngân hàng là một tổng thể khá phức tạp và chứa 
nhiều tiêu thức phân đoạn khác nhau. Bên cạnh đó nhu cầu của khách hàng về các 
dịch vụ ngân hàng là không đồng nhất và có nhiều biến động. 
 7
1.3.Đặc điểm về cạnh tranh 
Cùng với xu hướng chung của nền kinh tế, kinh doanh ngân hàng đang diễn ra 
trong một môi trường hết sức gay gắt, với cường độ cạnh tranh cao và chứa đựng 
không ít rủi ro. Ngày nay, xu hướng cạnh tranh của các ngân hàng thể hiện dưới ba 
hình thức: 
- Cạnh tranh về các hoạt động Marketing 
- Cạnh tranh về tự động 
- Cạnh tranh theo quy mô (dùng sáp nhập, hợp nhất, liên kết với nhau 
nhằm tăng sức cạnh tranh ) 
2.Đặc điểm hoạt động Marketing trong ngân hàng 
2.1.Nghiên cứu cầu 
Việc nghiên cứu cầu thực chất là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi 
“Khách hàng cần những sản phẩm gì?”, nhu cầu thực tế về chúng như thế 
nào?”. Ngoài ra ngân hàng còn cần thiết phải biết thêm cầu có khả năng chi trả, 
nghĩa là cầu được đảm bảo bằng tiến vốn của khách hàng. Qua trình nghiên cứu cầu 
bao gồm 
a. Nghiên cứu mức cầu hiện tại. 
Ở bước này phòng Marketing có nhiệm vụ xem xét các phương hướng chung 
hình thành các nhu cầu của khách hàng tiềm năng và cả khách hàng đang phục vụ, 
cần phát hiện tron số khách hàng đó thì hiện nay cần quan tâm đến những khách 
hàng nào. Ngoài ra cần chú ý rằng không phải tất cả các nhu cầu được phát hiện 
ngân hàng đều có khả năng đáp ứng. Quá trình nghiên cứu 
 8
b. Dự đoán cầu 
Để dự đoán chính xác những biến đổi của cầu cần nghiên cứu các khuynh 
hướng hiện có trên thị trường được xem xét, phát hiện tất cả các yếu tố ảnh hưởng 
đến tìn hình cầu và xác định mức độ tác động có thể của chúng. Việc phân tích các 
khuynh hướng hiện có trong việc biến động của cầu của từng loại sản phẩm dựa trên 
cơ sở nghiên cứu sự vận động của cầu của từng loại sản phẩm ngân hàng đối với 
từng loại ngân hàng. Ví dụ: sự biến động của khách hàng có mức thu nhập cao sẽ có 
tác dộng tói các dịch vụ ngân hàng như tư vấn về thuế khoá, các khoản vay lớn. Vì 
vậy khi phát hiện các khuynh hướng biến động của khách hàng dẫn tới biến động 
của cầu về các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thì cần so sánh với các sản phẩm va 
fdv mà khách hàng hiện đang cung ứng để có các kế hoạch điều chỉnh. 
2.2.Phân đoạn thị trường 
Do hoạt động trong những điều kiện phức tạp của thị trường nên ngân hàng 
phải chú ý tới các vấn đề phục vụ ai và như thế nào. trên thực tế các ngân hàng 
không muốn thoả mãn tất cả các nhu cầu của tất cả các khách hàng tiềm năng. Do đó 
Tổng nhu 
cầu về 
dịch vụ 
ngân 
hàng 
Nhu cầu về 
dịch vụ ngân 
hàng ở thời 
điểm nào đó 
được kiểm 
tra cụ thể 
Cầu về dịch vụ 
của loại khách 
hàng mà ngân 
hàng đang 
phụvụ hoặc dự 
định phục vụ 
Cầu về 
toàn bộ sản 
phẩm hiện 
có của 
ngân hàng 
ở thời điểm 
noà đó 
Tổng nhu 
cầu về 
dịch vụ 
ngân 
hàng ở 
thời điểm 
đó 
Phát hiện các sản phẩm chưa được cung ứng ở thời điểm hiện tại 
nhưng có nhu cầu cao của nhóm khách hàng đó 
Phân tích về khả năng và sự hợp 
lý của việc ngân hàng cung ứng 
các dịch vụ mới 
Phân tích khả năng và sự hợp lý 
của việc ngân hàng phục vụ các 
loại khách hàng mới 
 9
thị trường ngân hàng được chia ra thành các phân đoạn mà ở đó ngân hàng thực hiện 
việc bán sản phẩm của mình. Việc xác định chính xác các giới hạn thị trường phục 
vụ có ý nghĩa to lớn bởi vì chính trong giới hạn này là nơi ngân hàng hoạt động và 
hướng các chiến lược của mình vào đó. 
Trong hoạt động ngân hàng, tiêu thức phân đoạn thị trường rất đa dạng và 
phong phú. Tuy nhiên 2 xu hướng được sử dụng rộng rãi nhất. 
a. Phân đoạn thị trường theo các nhóm người tiêu dùng 
Việc phân đoạn theo tiêu thức này là một quá trình tương đối khó khăn và 
phức tạp, đòi hỏi ngân hàng phải có nhiều nỗ lực. Theo tiêu thức này thị trường 
được chia thành 4 nhóm sau 
- Thị trường công ty 
- Thị trường bán buôn 
- Thị trường bán lẻ 
- Các tổ chức tài chính tín dụng khác và chính phủ. 
b. Phân đoạn theo đặc trưng của các dịch vụ cung ứng 
Phân đoạn theo tính chất các dịch vụ cung ứng rất có lợi khi lựa chọn các thị 
trường mục tiêu và cho phép xác định sản phẩm nào của ngân hàng được hấp dẫn 
nhất đối với khách hàng và cho phép so sánh dịch vụ đó với dịch vụ của đối thủ 
cạnh tranh. Theo phương pháp này có 4 tiêu thức nhỏ được các ngân hàng sử dụng 
sau đây. 
- Phân đoạn theo dịch vụ tín dụng 
- Phân đoạn theo dịch vụ tiền gửi 
- Phân đoạn theo nghiệp vụ đầu tư 
- Phân đoạn theo các dịch vụ khác 
c. Phân đoạn theo một vài tham số khác 
Ngoài hai phương pháp trên thì ngân hàng còn sử dụng một số tiêu thức khác 
để phân đoạn thị trường như: 
- Phân đoạn theo tiêu thức địa lý 
 10
- Phân đoạn theo lứa tuổi 
- Phân đoạn theo mức tiền gửi 
2.3.Lựa chọn thị trường mục tiêu 
Sau khi công việc phân đoạn thị trường được hoàn thành thì việc quan trọng 
tiếp theo là lựa chọn thị trường mục tiêu nhằm tìm ra những đoạn thị trường mà 
ngân hàng có thế mạnh hơn đối thủ cạnh tranh. Vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là 
lựa chọn một trong số các phương án hoạt động sau: 
a. Tập trung cố gắng phục vụ một nhóm khách hàng 
Việc tập trung cố gằng vào một phân đoạn thị trường thích hợp tại ngân hàng 
tham gia vào thị trường mới nhằm mục đích “làm đà” cho sự mở rộng kinh doanh 
tiếp theo. Song nếu duy trì lâu chiến lượng này sẽ tuơng đối phức tạp khi đối thủ 
cạnh tranh bắt đầu tăng sụ cạnh tranh và khi đó ngân hàng sẽ gặp rủi ro cao. 
b. Thoả mãn một nhu cầu nào đó của tất cả các nhóm khách hàng. 
Phương án này được lựa chọn trong thời kỳ ngân hàng mới được thành lập, khi 
mà bao quanh là sự cạnh tranh mạnh mẽ. Ở đây điều đặc biệt là ngân hàng phải 
lựa chọn đúng đắn sản phẩm mà ngân hàng có khả năng thoả mãn số lượng tối đa 
khách hàng và có khả năng cạnh tranh. 
c. Chuyên môn hoá có lựa chọn ở các phân đoạn thị trường khác nhau. 
Phương án này được áp dụng khi ngân hàng đã được vị thế của mình trên thương 
trường, đảm bảo chi ngân hàng ít chịu ảnh hưởng của những thay đổi thị trường 
cũng như những thất bại trong cạnh tranh. Tuy nhiên, cần phả tốn kém cho chi 
phí Marketing và ngân hàng pha phân tán sức lực nên ít có ưu thế cạnh tranh ở 
một phân đoạn thị trường riêng nào đó 
d. Phục vụ toàn bộ thị trường 
Theo phương án này n cung ứng cho tất cả các khách hàng có nhu cầu và 
không hạn chế trong khuôn khổ các nhóm khách hàng nhất định. Tuy nhiên, phương 
án này chỉ thích hợp với các ngân hàng lớn, khả năng tài chính mạnh. 
 11
2.4.Dịch vụ sản phẩm 
Sau khi thị trường mục tiêu được lựa chọn thì nhuệm vụ của ngân hàng là phải 
tìm cách xâm nhập vào đó thông qua quá trình định vị hàng hoá, tức là phải tìm cách 
khắc hoạn hình ảnh của sản phẩm trọng tâm khi khách hàng ở thị trường mục tiêu, 
bắt nguồn từ sự thấu hiểu những cảm nhận và đánh giá của họ về sản phẩm. Nói 
chung sản phẩm của ngân hàng là rất khó phân biệt nên để định vị sản phẩm thì các 
ngân hàng thường xác lập hình ảnh thông qua các biểu tượng hay đẩy mạnh các hình 
thức tuyên truyền và khuyến mãi, tăng mức độ vật chất hoá sản phẩm của mình có 
những đặc điểm khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. 
2.5.Hệ thống Marketing - mix (4P) 
1.1.1. Chiến lược sản phẩm (P1) 
Sản phẩm của ngân hàng thực chất là các dịch vụ mà các ngân hàng cung ứng 
cho khách hàng, các khách hàng mua sản phẩm của ngân hàng thực chất là mua khả 
năng thoả mãn một nhu cầu nào đó của mình. Các dịch vụ của ngân hàng được phân 
loại theo sơ đồ sau: 
a. 
a.Dịch vụ tiền gửi: tiền gửi là nguồn quan trọng nhất trong vốn tiền tệ của ngân 
hàng, chính vì vậy mà ngân hàng tập trung những cố gắng chủ yếu về tiếp thịvào 
nguồn vốn này, nguồn vốn bằng tiền của ngân hàng gồm có các dạng sau. 
Dịch vụ tiền gửi Dịch vụ tín dụng 
Các dịch vụ khác Các dịch vụ đầu tư 
Các dịch vụ của NH 
 12
b. 
c. Dịch vụ tín dụng 
Cho vay vốn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng và dịch vụ chủ yếu 
tạo ra nguồn thu nhập cho ngân hàng trên cơ sở chênh lệch lãi suất cho vay và lão 
suất huy động vốn của ngân hàng. Có rất nhiều cách phân loại dịch vụ cho vay theo 
các tiêu chí sau 
Theo loại nguồn vốn vay 
Theo thời hạ vay 
Theo tính chất đảm bảo 
Theo phương pháp cáp tiền vay 
Theo cách thức trả nợ 
Theo tính chất lãi suất 
Theo phương pháp chi trả lãi suất 
Theo loại tiền vay 
Theo số lượng nguồn vốn vay 
Các dịch vụ mang tính chất tín dụng 
d. Các dịch vụ đầu tư: 
Nguồn vốn bằng tiền 
Tiền gửi của 
khách hàng 
Tiền vay của n ở các tổ 
chức tín dụng khác 
Vốn cổ phần 
Tiêu 
chí cho 
vay 
vốn 
 13
Ngoài các dịch vụ cho vay, để sử dụng số vốn nhàn rỗi một cách có hiệu quả 
thị ngân hàng còn tiến hành các nghiệp vụ đầu tư vào các giấy tờ có giá, các loại 
giấy tờ có giá nhất mà ngân hàng đầu tư được chia thành 2 nhóm lớn 
- Các dự trữ thứ nhất 
- Các dự trữ thứ hai 
Các giấy tờ có giá thuộc loại dự trữ thứ nhất nhằm mục đích thu lợi nhuận cho 
ngân hàng và thường là các giâý tờ có giá có thời hạn dài và đưa lại thu nhập cao, 
chẳng hạn như công trái do chính phủ phát hành. Các giấy tờ có giá thuộc loại dự trữ 
thứ hai đạt mục đích nâng cao khả năng thanh toán hơn là thu nhập. 
e. Các dịch vụ khác 
Ngân hàng tiến hành các dịch vụ này nhằm mục đích đảm bảo cho ngân hàng 1 
khoản thu nhập bổ sung và cho phép hạn chế rủi ro. Chúng bao gồm hàng loạt các 
dịch vụ trong