Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế hàng hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã có tác dụng to lớn trong việc khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu,trong đó có ngành may mặc xuất khẩu Cùng với sự chuyển mình của đất nước trong việc từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như trên thế giới,công nghệ sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có những chuyển biến tích cực,kịp thời phù hợp với xu hướng phát triển chung,có thể đáp ứng được những yêu cầu mới của nền kinh tế quốc dân.Cùng với những ngành kinh tế mũi nhọn khác,dệt may Việt Nam đã thực sự là chiếc cầu nối Việt Nam với thế giới.
Tuy có trải qua nhiều thăng trầm do có sự biến đổi của nền kinh tế-chính trị thế giới nhưng ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đã nhanh chóng tìm được bạn hàng và ngày càng có vị trí vững chắc trên thị trường thế giới.Theo thống kê của Bộ Thương Mại, xuất khẩu hàng dệt may 8 tháng năm 2003 đạt 2,597 tỷ USD,tăng 58% so với cùng kỳ năm ngoái, đứng thứ hai sau dầu thô về kim ngạch xuất khẩu.Với những lợi thế và đặc điểm riêng có như vốn đầu tư không lớn,thời gian thu hồi vốn nhanh,thu hút được nhiều lao động, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đã được phát triển trong môi trường hết sức thuận lợi.Tuy nhiên để khai thác triệt để ưu thế của ngành, có thể mở rộng cả trong và ngoài nước,Nhà nước cũng cần phải có những chính sách và biện pháp tạo điều kiện cho ngành phát triển và bản thân mỗi doanh nghiệp cũng cần nhanh chóng nắm bắt được những yêu cầu của thị trường, tích cực tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Qua quá trình tìm hiểu thực tiễn hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty TNHH Minh Trí, em đã chọn đề tài : “Hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty TNHH Minh Trí” làm đề tài nghiên cứu cho bản thu hoạch thực tập của mình. Trên cơ sở xem xét thực trạng hoạt động ở công ty,em muốn đề ra một số ý kiến và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty nói riêng và ngành may mặc xuất khẩu của Việt Nam nói chung,để ngành may mặc xứng đáng là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Với mục đích như trên,bài thu hoạch thực tập được bố cục làm 3 chương:
Chương I: Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam thời gian qua.
Chương II:Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may tại công ty TNHH Minh Trí.
Chương III: Một số kiến nghị và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may tại công ty TNHH Minh Trí
51 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2928 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty TNHH Minh Trí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế hàng hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã có tác dụng to lớn trong việc khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu,trong đó có ngành may mặc xuất khẩu Cùng với sự chuyển mình của đất nước trong việc từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như trên thế giới,công nghệ sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có những chuyển biến tích cực,kịp thời phù hợp với xu hướng phát triển chung,có thể đáp ứng được những yêu cầu mới của nền kinh tế quốc dân.Cùng với những ngành kinh tế mũi nhọn khác,dệt may Việt Nam đã thực sự là chiếc cầu nối Việt Nam với thế giới.
Tuy có trải qua nhiều thăng trầm do có sự biến đổi của nền kinh tế-chính trị thế giới nhưng ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đã nhanh chóng tìm được bạn hàng và ngày càng có vị trí vững chắc trên thị trường thế giới.Theo thống kê của Bộ Thương Mại, xuất khẩu hàng dệt may 8 tháng năm 2003 đạt 2,597 tỷ USD,tăng 58% so với cùng kỳ năm ngoái, đứng thứ hai sau dầu thô về kim ngạch xuất khẩu.Với những lợi thế và đặc điểm riêng có như vốn đầu tư không lớn,thời gian thu hồi vốn nhanh,thu hút được nhiều lao động, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đã được phát triển trong môi trường hết sức thuận lợi.Tuy nhiên để khai thác triệt để ưu thế của ngành, có thể mở rộng cả trong và ngoài nước,Nhà nước cũng cần phải có những chính sách và biện pháp tạo điều kiện cho ngành phát triển và bản thân mỗi doanh nghiệp cũng cần nhanh chóng nắm bắt được những yêu cầu của thị trường, tích cực tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Qua quá trình tìm hiểu thực tiễn hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty TNHH Minh Trí, em đã chọn đề tài : “Hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty TNHH Minh Trí” làm đề tài nghiên cứu cho bản thu hoạch thực tập của mình. Trên cơ sở xem xét thực trạng hoạt động ở công ty,em muốn đề ra một số ý kiến và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và xuất khẩu tại công ty nói riêng và ngành may mặc xuất khẩu của Việt Nam nói chung,để ngành may mặc xứng đáng là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Với mục đích như trên,bài thu hoạch thực tập được bố cục làm 3 chương: Chương I: Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam thời gian qua.
Chương II:Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may tại công ty TNHH Minh Trí.
Chương III: Một số kiến nghị và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may tại công ty TNHH Minh Trí.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do thời gian ngắn và trình độ bản thân còn hạn chế nên bản thu hoạch thực tập tốt nghiệp này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn đọc quan tâm đến đề tài này.
Cuối cùng,em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Kinh Tế Ngoại Thương, sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ công nhân viên Phòng Kinh Doanh- Xuất Nhập Khẩu, phòng Tài Chính Kế Toán công ty TNHH Minh Trí và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy Nguyễn Quang Hiệp đã giúp em hoàn thành bản thu hoạch thực tập này.
Chương I
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I.VAI TRÒ,LỢI THẾ PHÁT TRIỂN HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM
1. Lợi thế
Với nhiều lợi thế và tiềm năng, ngành dệt may Việt Nam có rất nhiều điều kiện để phát triển .Trước hết đó là truyền thống lâu năm trồng bông,ươm tơ dệt lụa,... sản xuất hàng dệt và may mặc cùng thời tiết khí hậu phù hợp với việc phát triển cây bông, một nguyên liệu chủ yếu cho ngành dệt may mặc.Ngoài ra,vị trí địa lý của Việt Nam vô cùng thuận lợi ,ven biển giáp danh với 3 nước,là điểm giao lưu thuận tiện của các loại phương tiện vận tải đi quốc tế.Cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú đa dạng,cung cấp khá đầy đủ nguyên liệu cho cả ngành dệt và may mặc phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại.Đặc biệt với một đội ngũ nhân công dồi dào,cần cù chăm chỉ, có khả năng thích ứng nhanh với công nghệ cao,máy móc thiết bị hiện đại,tạo ra những sản phẩm có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế và được thị trường thế giới chấp nhận.
Bên cạnh đó những đặc điểm riêng có của ngành dệt may Việt Nam nói riêng cũng như thế giới nói chung có thể nói cũng là những lợi thế của ngành này so với các ngành công nghiệp khác.Đó là: ngành dệt may sử dụng một số lượng lớn lao động đặc biệt là lao động nữ,số công nhân trong ngành may chiếm gần 60% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp cả nước,mà giá nhân công nước ta lại khá rẻ so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Lao động trong ngành may lại không đòi hỏi phải đào tạo ở trình độ cao và phức tạp. Thêm vào đó, số vốn đầu tư không lớn nhưng tỷ lệ lãi cao ,máy móc thiết bị trong ngành lại không thuộc loại công nghệ phức tạp nên số tiền đầu tư thấp lơn nhiều so với ngành khác.Chỉ cần bỏ ra 0,8 đến 1 triệu USD đưa vào hoạt động một nhà máy có công suất 1 triệu sản phẩm /năm. Mặt khác tốc độ quay vòng vốn nhanh (4-5 vòng/năm) ,theo đó chỉ cần sau 3 năm là có thể thu hồi lại vốn.Đây chính là điểm thuận lại nhất cho các nước nghèo muốn vươn lên thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá trong đó có Việt Nam.
Như vậy,khi chưa có lợi thế về kỹ thuật cao,công nghệ hiện đại tiên tiến thì những lợi thế về nguồn lao động với giá nhân công rẻ,truyền thống sản xuất lâu đời chính là những lợi thế và tiền đề cơ bản để ngành dệt may Việt Nam tham gia vào thương mại quốc tế. Nhờ những lợi thế trên, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam càng có thêm cơ sở để vững tin hơn vào một sự phát triển ổn định và vững chắc hơn trong tương lai.
2.Vai trò
.Ngoài chức năng chủ yếu là bảo vệ cơ thể con người khỏi tác động của ngoại cảnh bên ngoài thì theo sự phát triển của đời sống xã hội, sản phẩm may mặc càng thể hiện rõ nét hơn một chức năng nữa ,hết sức quan trọng và trở thành chức năng chính trong nhu cầu về loại sản phẩm này,đó là chứ năng trang điểm, chức năng làm đẹp cho con người. Xuất phát từ chức năng chung đó,sản phẩm may mặc nói chung và quần áo nói riêng ngày nay phải đảm bảo những yêu cầu rất đa dạng phong phú như: chất lượng cao , giá cả cạnh tranh,kiểu dáng mẫu mã đẹp ,có tính thẩm mỹ và các tính chất tiêu dùng khác ,đáp ứng được sự phát triển không ngừng của trình độ tiêu dùng và văn minh xã hội.
Nhận ra tầm quan trọng của mặt hàng dệt may như vậy,Đảng và Nhà nước trong những năm qua đã luôn quan tâm và đề ra những chủ trương đúng đắn để phát triển ngành dệt may ,vừa để nâng cao đời sống nhân dân vừa phát triển kinh tế đất nước.Đặc biệt trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay bước đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì vai trò ngành dệt may xuất khẩu càng trở nên hết sức quan trọng và được xem là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Giống như những ngành kinh tế khác,ngành dệt may của Việt Nam cũng là một nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.Năm 2002,một năm được đánh giá là khá thành công đối với sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.Theo số liệu thống kê,kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt 2,75 tỷ USD,tăng trên 36% so với năm 2001,mức tăng này cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước là 7%, năm 2003 nếu thực hiện đúng kế hoạch đề ra thì dệt may Việt Nam sẽ cung cấp cho ngân sách 3,2-3,5 tỷ USD,chiếm 8,58% giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc,gần 15% tổng số kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
Đơn vị:Triệu USD
Nguồn:Tham khảo nội bộ-Thông tin bộ Thương Mại ngày 10/02/2003
Thêm vào đó,với nhiều lợi thế riêng có,ngành dệt may xuất khẩu giúp thu hút được nhiều lao động với kỹ năng không cao,thời gian đào tạo ngắn lại có tỷ trọng lợi nhuận tương đối cao,đồng thời có điều kiện để mở rộng thương mại quốc tế. Năm qua, ngành dệt may đã thu hút một số lượng lớn lao động toàn đất nước, với số lao động lên đến 1,6 triệu người, kể cả 700 nghìn lao động trồng bông nuôi tằm, chiếm 25% tổng số lực lượng lao động. Và mục tiêu đặt ra là đến 2010 ngành này sẽ tạo được việc làm cho khoảng 2,76 triệu lao động với mức thu nhập bình quân đầu người trên 100USD/người/tháng.Qua đó thu nhập người lao động sẽ tăng từ đó có điều kiện để nâng cao sức mua,mở rộng thị trường trong nước.đẩy mạnh sản xuất phát triển ,tạo sự ổn định về kinh tế. chính trị, xã hội.
Thêm vào đó, phát triển ngành dệt may xuất khẩu không chỉ tạo ra công ăn việc làm trong ngành may mà còn tạo cơ hội phát triển cho các ngành liên quan và phụ trợ khác như :trồng bông, dệt, cơ khí, hóa chất, bao bì, kho tàng, bảo quản ,vận tải, cảng và phục vụ cảng... cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Hiện nay, may mặc xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia công xuất khẩu cho nước ngoài ,khách hàng của chúng ta chủ yếu là các nhà nhập khẩu có tên tuổi,các trung tâm thời trang khu vực và thế giới,qua phương thức gia công, các doanh nghiệp của Việt Nam có cơ hội tiếp cận với những công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến của thế giới một cách nhanh nhất,từ đó chuẩn bị từng bước đưa hàng Việt Nam thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
Ngoài ra, thông qua việc đảm bảo những tiêu chuẩn quốc tế để được chấp nhận ở các thị trường xuất khẩu ,sản phẩm dệt may của Việt Nam ngày càng được nâng cao về chất lượng,hạ giá thành sản phẩm, từ đó cơ cấu mặt hàng may mặc trong nước cũng được đa dạng ,phong phú hơn,phục vụ tốt nhu cầu người tiêu dùng trong nước và cạnh tranh có hiệu quả hơn với hàng ngoại nhập đang lấn át thị trường nội địa. Cũng từ đó,người tiêu dùng nước ngoài sẽ biết nhiều hơn đến sản phẩm do Việt Nam sản xuất, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo đà cho Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế được thuận lợi .
II. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA.
1.Điều kiện phát triển
a, Năng lực sản xuất
Trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với các ngành kinh tế khác của nền kinh tế nước nhà, ngành dệt may của ta cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, đóng góp một phần không nhỏ vào mức tăng trưởng GDP và góp phần quan trọng trong việc xây dựng đất nước thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá(CNH,HĐH) đất nước.Để có được những thành tựu đáng khích lệ, toàn ngành đã có những thay đổi không ngừng về đầu tư trang thiết bị công nghệ, dây chuyền sản xuất tiên tiến, từ đó sản phẩm làm ra đạt kết quả cao cả về sản lượng và chất lượng, tính cạnh tranh có giá trị sản lượng xuất khẩu đạt cao và hội nhập được với khu vực và trên thế giới, sản phẩm làm ra thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng của khách hàng nước ngoài. Cho tới nay, toàn ngành có:
thành phần kinh tế
số doanh nghiệp
Doanh nghiệp quốc doanh
187
+ Doanh nghiệp dệt
70
+ Doanh nghiệp may
117
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(doanh nghiệp TNHH, cổ phần, tư nhân)
800
+ Doanh nghiệp dệt
600
+ Doanh nghiệp may
200
Nguồn:Tạp chí Chiến lược –chính sách doanh nghiệp năm 2003
Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường Mỹ,trong năm 2002 bên cạnh việc các doanh nghiệp đầu tư và mở rộng sản xuất thì đã có khá nhiều doanh nghiệp dệt may mới ra đời, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp tư nhân.Trong năm 2002 đã có trên 1.500 đơn vị tham gia xuất khẩu hàng dệt may trong đó có 52 đơn vị đạt kim ngạch xuất khâủ trên 10 triệu USD;350 đơn vị đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 đến 10 triệu USD.Tính đến nay toàn ngành có 500 dự án đầu tư liên doanh và 100% vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trên tất cả các lĩnh vực như : sợi, dệt nhuộm, đan len, may mặc, phụ tùng máy may với số vốn đăng ký 2.600 triệu USD.Trong đó Đài Loan là nước có nhiều dự án đầu tư nhất, lên đến 144 dự án, tổng số vốn đăng ký là 1.100 triệu USD, vốn thực hiện là 420 triệu USD.
Theo báo cáo gần đây nhất,trong cả nước số cơ sở dệt may tập trung chủ yếu ở 2 khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng bằng Nam Bộ, chiếm 50-60% sản lượng, Đồng bằng Sông Hồng chiếm 30-40%, đồng bằng Duyên hải Miền Trung thấp hơn, chỉ chiếm 10% sản lượng toàn ngành dệt may.
Trong những năm qua, Nhà nước đã dành cho ngành dệt nhuộm nguồn tín dụng của các nước Pháp, Nhật, Đức...để bổ sung các cọc sợi , đổi mới dây chuyền sơi và nhuộm.Về số thiết bị hiện toàn ngành có 1.050.000 cọc sợi, 14.000 máy dệt các loại, 450 máy may.Ngoài ra các doanh nghiệp vẫn dùng nguồn vốn tích luỹ hàng năm của mình để bổ sung, nâng cấp, hiện đại hoá trang thiết bị máy móc, đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu , đáp ứng yêu cầu tiêu dùng ngày một cao của thị trường may mặc thế giới.
Về phía ngành may mặc đã được đổi mới rất nhiều, đặc biệt ở khu vực tư nhân và các xí nghiệp liên doanh đã được trang bị thêm khá nhiều thiết bị hiện đại, dây chuyền sản xuất khép kín cùng nhiều loại thiết bị chuyên dụng gồm máy thêu tự động, giác sơ đồ bằng máy tính điện tử , một số máy tự động, hệ thống giặt mài vải Jean và dây chuyền đồng bộ chuyên may sơ mi, quần âu, áo comple.... của nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới như : JUKI, Singer, Brother, Siruba, Kasnai, Baruda.... của Nhật , Mỹ, Đức, Italia, Hồng Kông,..
b, Thị trường cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
Thị trường hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng nhờ sự khai thác linh hoạt của các doanh nghiệp cũng như sự hỗ trợ xúc tiến thương mại của các cơ quan chức năng.Nhìn chung tất cả các thị trường xuất khẩu may mặc chủ yếu của Việt Nam đều phát triển khá so với cùng kỳ. Cùng với việc mở rộng giao lưu kinh tế và chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam trở thành thành viên ASEAN, APEC, chuẩn bị tham gia WTO và đã có Hiệp định thương mại với EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ...đã tạo ra những thị trường lớn, mới cho việc xuất khẩu hàng dệt may. Bên cạnh các thị trường truyền thống như Nhật Bản, EU, Đài Loan, Hàn Quốc thì trong năm 2002 vừa qua các doanh nghiệp dệt may nước ta đã nỗ lực trong việc tìm kiếm các thị trường mới như Nga và các nước Đông Âu, các nước Trung Đông và Nam Phi.Mặc dù vậy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường này còn rất khiêm tốn.
Bảng: thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
trong năm 2002
Đơn vị:USD
Tên nước
Trị giá
Tên nước
Trị giá
Mỹ
944.080.068
Trung Quốc
12.116.865
Nhật Bản
480.760.573
Đan Mạch
10.877.527
Đức
199.881.041
Thuỵ Điển
10.216.809
Đài Loan
118.017.983
Campuchia
8.188.039
Hàn Quốc
91.793.667
Thụy Sĩ
7.161.445
Anh
73.980.061
Thái Lan
5.341.982
Pháp
68.371.396
Hy Lạp
5.293.950
Nga
51.002.506
Các tiểu vương quốc ả rập thống nhất
4.641.562
Tây Ba Nha
47.131.276
Indonesia
3.855.53
Hà Lan
43.725.617
Ai Len
3.766.871
Italia
40.585.314
áo
3.696.936
Lào
38.967.512
I Rắc
3.000.000
Canada
38.655.917
Phhilippine
2.851.496
Hồng Kông
33.587.714
Phần Lan
2.330.49
Malaysia
29.307.714
Myanmar
2.151.792
Bỉ
27.369.123
Na Uy
2.121.593
Ba Lan
27.226.989
New Zealand
2.121.026
Austraia
23.564.450
Thổ Nhĩ Kỳ
1.454.373
Singapore
18.420.486
Bồ Đào Nha
920.010
Mexico
12.370.791
Nam Phi
556.007
Nguồn: Tạp chí dệt may tháng 2/2003
Hiện nay thị trường xuất khẩu các sản phẩm dệt may của Việt Nam có thể được phân thành 4 thị trường lớn sau: thị trường Mỹ, thị trường EU, thị trường Nhật Bản và các thị trường khác.
Bảng so sánh thị phần kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
vào các thị trường xuất khẩu 6 tháng/năm 2003
Thị trường
% KNXK trong tổng KNXK toàn ngành
Mỹ
35,5
EU
19,5
Nhật Bản
17,5
Các thị trường khác
28,5
Nguồn:Tạp chí dệt may Việt Nam
a, Thị trường Mỹ: Mỹ và Bắc Mỹ là thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới, dân số đông(khoảng 360 triệu người) mức tiêu thụ hàng dệt may tính trung bình khoảng 27kg/người. Với dân số trên 178 triệu người ,Mỹ là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới, cả về mặt số lượng và giá trị hàng hoá, lại tương đối dễ tính hơn EU. Mức tiêu thụ hàng dệt may của Mỹ là 95 tỷ USD/năm, trong đó nhập khẩu chiếm 48,8%tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ giai đoạn 2002-2005 ước tính khoảng 70 ty USD/năm. Nhóm hàng nhập khẩu lớn nhất của Mỹ là quần áo may sẵn (69 tỷ USD) chiếm 89% tổng kim ngạch nhập trong khi nhập khẩu bông sợi chỉ chiếm 11%.Tại thị trường Mỹ,hình thức đặt hàng qua thư đang phát triển mạnh trong kinh doanh bán lẻ, ngoài các kênh nhập khẩu phân phối buôn bán lớn là các tập đoàn, thị trường Mỹ còn có các công ty trung gian , các công ty bán lẻ nhỏ, phương thức tính giá thường là theo giá FOB. Nguồn nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ hàng năm chủ yếu từ các nước châu á như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Đáng chú ý nhất về xuất khẩu của hàng dệt may của nước ta trong năm 2002 là xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng rất mạnh.Tính riêng năm 2002, Việt Nam đã xuất khẩu đạt kim ngạch 800 triệu USD hàng dệt may sang Mỹ,tăng hơn 19 lần so với thực hiện của năm 2001.Và trong quí I năm 2003,toàn ngành dệtmay nước ta thu được 850 triệu USD , tăng 90% so với cùng kỳ năm 2002, thì riêng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, thu được 500 triệu USD, tăng gần 20 so với cng kỳ năm 2002.Bằng những kết quả khả quan này,Mỹ đã vượt lên trên cả EU để trở thành thị trường nhập khẩu nhiều hàng dệt may nhất của nước ta.
Ngày 17/7/2003 vừa qua, Việt Nam và Mỹ đã ký chính thức Hiệp định riêng về hàng dệt may theo đó Mỹ sẽ xét duyệt hàng năm hạn ngạch cho hàng dệt may vào thị trường này.Như vậy tổng giá trị hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ , theo điều khoản trong hiệp định, là 1,7 tỷ USD/năm, và có 38 cat.sẽ phải chịu hạn ngạch trong đó gồm những mặt hàng quan trọng như áo sơ mi dệt kim sợi bông, quần dệt kim sợi bông và áo cánh. Hạn ngạch cho các sản phẩm sợi len sẽ tăng 2%/năm. Chỉ có hai mặt hàng không phải chịu hạn ngạch là áo jacket và áo khoác. Hiệp định này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/5/2003 đến ngày 31/12/2004.Nếu hai bên không huỷ bỏ hiệp định, không xem xét lại hiệp định trước ngày 1/12/2004 hoặc ngày1/12 của năm tiếp theo cho đến khi Việt Nam gia nhập WTO, hiệp định sẽ tự động có hiệu lực thêm một năm nữa. Mức hạn nghạch mà Mỹ dành cho Việt Nam là quá khiêm tốn, chưa đáp ứng đủ năng lực sản xuất hàng dệt may của Việt Nam. Chính vì vậy trong bối cảnh này, Việt Nam đang phải nỗ lực ra sức đàm phán đa phương rồi song phương vơí các nước thành viên WTO để sớm gia nhập vào năm 2005, chỉ có thế Việt Nam mới không bị áp hạn nghạch xuất khẩu hàng dệt may nói chung và vào thị trường Hoa Kỳ nói riêng.
b, Thị trường EU: Là một thị trường với dân số đông (374,2 triệu người),GDP hơn 9000 tỷ USD, mức thu nhập đầu người cao và nhu cầu về hàng may mặc lớn, có sức tiêu dùng vải cao (17 kg/người/năm) nhưng EU là một thị trường có hạn nghạch.Nhu cầu đối với hàng dệt may đặc biệt là tính mốt chiếm 85-90%giá trị sản phẩm nên hàm lượng chất xám trong sản phẩm dệt may là chính, theo thống kê chỉ 10-15% người dân châu Âu ăn mặc theo nhu cầu, còn lại 85-90% có đặc tính ăn mặc theo mốt. Ngoài ra EU được xem là một khối liên kết kinh tế chặt chẽ và sâu sắc nhất thế giới,hiện nay nó được xem như là một khu vực phát triển kinh tế ổn định và có đồng tiền chung châu Âu khá vững chắc.Thị trường hàng dệt may EU có nhu cầu lớn về số lượng và hàm lượng chất xám trong sản phẩm rất cao.
Kể từ khi ký Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam –EU vào ngày 15/12/1992 và có hiệu lực vào ngày 1/1/1993, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU không ngừng tăng với tỷ lệ bình quân là 40%/năm thời kỳ 1993-2000. Đây được xem là bước phát triển nhảy vọt,đưa hàng dệt may Việt Nam xâm nhập vào thị trường hàng dệt may thế giới.Nhiều năm trước đây khi thị trường Mỹ chưa được mở ra thì thị t