Kế hoạch Marshall ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II, với mục đích là giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp nhận viện trợ của kế hoạch Marshall, các nước Châu Âu đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh tế có sự phối hợp và thành lập một tổ chức hợp tác kinh tế Châu Âu (OECD). Trong khuôn khổ hợp tác phát triển, các nước OECD đã lập ra những uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC). Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu, khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD cho các nước đang và kém phát triển. Kể từ khi bản báo cáo đầu tiên của DAC ra đời vào năm 1961, thuật ngữ ODA được chính thức sử dụng, với ý nghĩa là sự trợ giúp có ưu đãi về mặt tài chính của các nước giàu, các tổ chức quốc tế cho các nước nghèo.
22 trang |
Chia sẻ: tuantu31 | Lượt xem: 681 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hợp tác quốc tế - Bài tập nhóm - Chủ đề: ODA của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật bản (jica), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP NHÓM
(Nhóm 3)
Chủ đề: ODA của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA)
Danh sách thành viên:
Đoàn Vân Anh
Trần Thị Như Nguyệt
Nguyễn Thị Mai Loan
Nguyễn Thị Loan
Lý luận chung về ODA- JICA
1.1 Nguồn gốc ODA
Kế hoạch Marshall ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II, với mục đích là giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp nhận viện trợ của kế hoạch Marshall, các nước Châu Âu đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh tế có sự phối hợp và thành lập một tổ chức hợp tác kinh tế Châu Âu (OECD). Trong khuôn khổ hợp tác phát triển, các nước OECD đã lập ra những uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC). Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu, khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD cho các nước đang và kém phát triển. Kể từ khi bản báo cáo đầu tiên của DAC ra đời vào năm 1961, thuật ngữ ODA được chính thức sử dụng, với ý nghĩa là sự trợ giúp có ưu đãi về mặt tài chính của các nước giàu, các tổ chức quốc tế cho các nước nghèo.
Định nghĩa ODA
ODA là viết tắt của cụm từ Official Development Assistance khi được dịch sang tiếng Việt nó có nghĩa là “Viện trợ phát triển chính thức”. Đây là các nguồn hỗ trợ, hình thức đầu tư nước ngoài cho một quốc gia nào đó. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Một khoản tài trợ được gọi là ODA nếu đáp ứng đầy đủ 3 điều kiện sau đây:
- Một là, được các tổ chức chính thức hoặc đại diện của các tổ chức chính thức cung cấp.
Tổ chức chính thức là các nhà nước mà đại diện là Chính Phủ, các tổ chức liên Chính Phủ, liên quốc gia
Các tổ chức phi Chính Phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận
- Hai là, mục tiêu chính là giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội.
- Ba là, thành tố hỗ trợ ( grant element) - yếu tố không hoàn lại - phải đạt ít nhất 25%. Thành tố hỗ trợ càng cao càng thuận lợi cho nước hỗ trợ. Chỉ tiêu này được xác định dựa trên tổ hợp các yếu tố: lãi suất, thời gian ân hạn, thời hạn cho vay, số lần trả nợ trong năm và tỷ lệ chiết khấu.
Phân loại
1.3.1 Phân loại theo cách thức hoàn trả ODA:
1.3.1.1 Viện trợ không hoàn lại
Viện trợ không hoàn lại là loại ODA mà bên nước nhận không phải hoàn lại, nguồn vốn này nhằm để thực hiện các dự án ở nước nhận vốn ODA, theo sự thoả thuận trước giữa các bên. Có thể xem viện trợ không hoàn lại như một nguồn thu ngân sách của nhà nước, được cấp phát lại theo nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Viện trợ không hoàn lại chiếm 25% tổng số ODA trên thế giới và được ưu tiên cho những dự án về các lãnh vực như y tế, dân số, giáo dục, môi trường...
1.3.1.2 Viện trợ có hoàn lại (còn gọi là tín dụng ưu đãi, có yếu tố không hoàn lại chiếm ít nhất 25% giá trị khoản vay)
Tín dụng ưu đãi là vốn ODA với một lãi suất ưu đãi và một thời gian trả nợ thích hợp, nó chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thế giới. Nó không được dùng cho mục tiêu xã hội, môi trường mà thường được dùng cho các dự án về cơ sở hạ tầng thuộc các lãnh vực giao thông vận tải, nông nghiệp, thủy lợi, năng lượng...làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế. Các điều kiện ưu đãi bao gồm:
- Lãi suất thấp
- Thời gian trả nợ dài
- Có khoảng thời gian không trả lãi hay trả nợ
1.3.1.3. ODA cho vay hỗn hợp:
Đây là loại ODA kết hợp hai dạng trên, bao gồm một phần không hoàn lại và tín dụng ưu đãi.
1.3.2 Phân loại theo mục đích
Hỗ trợ cơ bản:
Hỗ trợ cơ bản là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi.
Hỗ trợ kỹ thuật
Hỗ trợ kỹ thuật là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư phát triển thể chế và nguồn nhân lực Loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại.
1.3.3 Phân loại theo điều kiện
1.3.3.1 ODA không ràng buộc
ODA không ràng buộc là việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng
1.3.3.2 ODA có ràng buộc
- Ràng buộc bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là nguồn ODA được cung cấp dành để mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương), hoặc công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
- Ràng buộc bởi mục đích sử dụng: Nghĩa là nước nhận viện trợ chỉ được cung cấp nguồn vốn ODA với điều kiện là phải sử dụng nguồn vốn này cho những lĩnh vực nhất định hay những dự án cụ thể.
1.3.3.3. ODA ràng buộc một phần:
Nước nhận viện trợ phải dành một phần ODA chi ở nước viện trợ (như mua sắm hàng hoá hay sử dụng các dịch vụ của nước cung cấp ODA), phần còn lại có thể chi ở bất cứ đâu.
1.3.4 Phân loại theo hình thức
1.3.4.1. Hỗ trợ dự án:
Đây là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi. 1.3.4.2. Hỗ trợ phi dự án:
Là loại ODA được nhà tài trợ cung cấp trên cơ sở tự nguyện. Khi nhận thấy các vấn đề bức xúc ở nước sở tại, nhà tài trợ yêu cầu chính phủ nước sở tại được viện trợ nhằm tháo gỡ những khó khăn đó. Khi được chính phủ chấp thuận thì việc viện trợ được tiến hành theo đúng thoả thuận của hai bên. Loại ODA này thường được cung cấp kèm theo những đòi hỏi từ phía chính phủ nước tài trợ. Do đó, chính phủ nước này phải cân nhắc kỹ các đòi hỏi từ phía nhà tài trợ xem có thoả đáng hay không. Nếu không thoả đáng thì phải tiến hành đàm phán nhằm dung hoà điều kiện của cả hai phía. Loại ODA này thường có mức không hoàn lại khá cao, bao gồm các loại hình sau:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: Trong đó thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hay hỗ trợ xuất nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hoá được chuyển vào qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách.
- Hỗ trợ trả nợ: Nguồn ODA cung cấp dùng để thanh toán những món nợ mà nước nhận viện trợ đang phải gánh chịu.
- Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian xác định mà không phải xác định chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
1.4 Đặc điểm
ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi. Do vậy, ODA có những đặc điểm chủ yếu sau:
1.4.1 Vốn ODA mang tính ưu đãi
Vốn ODA có thời gian cho vay( hoàn trả vốn dài), có thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại( cho không), đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là:
Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội( GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn.
Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA. Và quan trọng ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ.
1.4.2 Vốn ODA mang tính ràng buộc
ODA có thể ràng buộc ( hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới 65%.
1.4.3 ODA do chính nước nhận viện trợ quản lý và sử dụng nhưng luôn có sự giám sát từ phái nhà tài trợ, tuy nhiên sự giám sát này không trực tiếp.
Chính vì nguyên nhân này mà ODA đôi khi sử dụng kém hoặc không hiệu quả nếu như nước tiếp nhận ODA thiếu hoặc chưa nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc quả lý và sử dụng nguồn viện trợ này sao cho hiệu quả. Hơn nữa, cùng với sự ưu đãi từ nguồn viện trợ này như việc vay ưu đãi với lãi suất thấp chỉ băng 1/10 so với vốn vay thông thường và một phần cho không, thời gian trả nợ dài gồm cả thời gian ân hạn. Điều kiện ưu đãi này đã dẫn đến một số người có tư tưởng xem nhẹ hiệu quả sử dụng ODA với tư cách là khoản vay cần phải trả nợ.
1.4.4 ODA là một giao dịch quốc tế
Thể hiện ở chỗ hai bên tham gia giao dịch này không có cùng quốc tịch. Bên cung cấp thường là các nước phát triển hay các tổ chức phi chính phủ. Bên tiếp nhận thường là các nước đang phát triển hay các nước gặp khó khăn về nguồn lực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế hay môi trường.
- ODA thường được thực hiện qua hai kênh giao dịch là kênh song phương và kênh đa phương. Kênh song phương, quốc gia tài trợ cung cấp ODA trực tiếp cho chính phủ quốc gia được tài trợ. Kênh đa phương, các tổ chức quốc tế hoạt động nhờ các khoản đóng góp của nhiều nước thành viên cung cấp ODA cho quốc gia được viện trợ. Đối với các nước thành viên thì đây là cách cung cấp ODA gián tiếp.
- ODA là một giao dịch chính thức. Tính chính thức của nó được thể hiện ở chỗ giá trị của nguồn ODA là bao nhiêu, mục đích sử dụng là gì phải được sự chấp thuận và phê chuẩn của chính phủ quốc gia tiếp nhận. Sự đồng ý tiếp nhận đó được thể hiện bằng văn bản, hiệp định, điều ước quốc tế ký kết với nhà tài trợ.
1.5 Ý nghĩa của ODA
1.5.1 Với nước tiếp nhận ( các nước đang phát triển)
Nguồn vốn ODA được đánh giá là nguồn ngoại lực quan trọng giúp các nước đang phát triển thực hiện các chiến lược phát triển KT-XH của mình. Vai trò của ODA thể hiện trên các giác độ cơ bản như:
- ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu tư phát triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 10 - 30 năm, lãi suất thấp khoảng từ 0,25% đến 2%/năm. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy Chính phủ các nước ĐPT mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế. Những cơ sở hạ tầng KTXH được xây dựng mới hoặc cải tạo nhờ nguồn vốn ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của các nước nghèo. Theo tính toán của các chuyên gia của WB, đối với các nước ĐPT có thể chế và chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng trưởng tăng thêm 0,5%.
- ODA giúp các nước ĐPT phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường. Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước ĐPT. Bên cạnh đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khoẻ cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước ĐPT đã gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
- ODA giúp các nước ĐPT xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và giảm 0,9% tỷ lệ tỷ vong ở trẻ sơ sinh. Và nếu như các nước giầu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ cứu được 25 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo.
- ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của các nước ĐPT. Đa phần các nước ĐPT rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt các khoản trợ giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.
- ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ sung cho đầu tư tư nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ. Tuy nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát huy tác dụng đối với đầu tư tư nhân. Ở những nền kinh tế có môi trường bị bóp méo nghiêm trọng thì viện trợ không những không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư nhân. Điều này giải thích tại sao các nước ĐPT mắc nợ nhiều, mặc dù nhận được một lượng ODA lớn của cộng đồng quốc tế song lại không hoặc tiếp nhận được rất ít vốn FDI.
- ODA giúp các nước ĐPT tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.5.2 Với nước tài trợ
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hay theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ:
- Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
- Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của nước tài trợ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
- Việc cung cấp ODA giúp các nước tài trợ mở rộng mối quan hệ hợp tác, ngoại giao và tạo được vị thế vững chắc của mình trên thế giới.
Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục tiêu và lợi ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như không thay đổi so với trước đây: tập trung cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên truyền dân chủ kiểu phương tây, trói buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế giới thứ ba vào trong một trật tự tự do mà các trung tâm tự bản đã sắp đặt khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào...
1.6 Khái niệm JICA
JICA là chữ viết tắt của Văn phòng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (The Japan International Cooperation Agency). JICA là cơ quan triển khai viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản cho các dự án hợp tác mang tính kỹ thuật, hợp tác vốn vay và viện trợ không hoàn lại . Mục tiêu của JICA là đóng góp một phần vào việc tái thiết các nước đang phát triển, hướng tới việc có thể độc lập giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội của riêng mỗi nước. Do đó, JICA đặt trọng tâm hành động vào việc chia sẻ các kinh nghiệm và kiến thức của Nhật Bản với các nước đang phát triển. JICA hiện có đại diện tại hơn 100 nước trên thế giới và đang mở rộng hoạt động tại hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ.
JICA có nguồn gốc từ “Tổ chức Hợp tác Quốc tế” được thành lập từ năm 1974. Với tư cách là một trong những cơ quan thực hiện ODA của Chính Phủ Nhật Bản, cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (gọi tắt là JICA) chịu trách nhiệm thực hiện phần hợp tác kỹ thuật. Từ tháng 10 năm 2003, JICA chuyển thành một Cơ quan hành chính độc lập. Với mục đích giúp cho các nước đang phát triển có thể phát triển kinh tế xã hội một cách tự lực và bền vững, JICA đã thực hiện các hoạt động hợp tác chủ yếu là đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước.
Từ tháng 10/2008, phần hợp tác vốn vay của JBIC (Ngân hàng hợp tác Quốc tế Nhật Bản) được hợp nhất vào JICA, theo đó JICA mới được hình thành. JICA mới thực hiện cả 3 hình thức viện trợ ODA: Hợp tác kỹ thuật, Hợp tác vốn vay và Viện trợ không hoàn lại. Vì vậy, các hoạt động viện trợ sẽ được tiến hành hiệu quả hơn từ xây dựng cơ sở hạ tầng với quy mô lớn tới hợp tác kỹ thuật cấp cơ sở tại cộng đồng phù hợp với nhu cầu đa dạng của các nước đang phát triển.
1.7 Mục đích và nguyên tắc hoạt động của JICA
* Mục đích
-Giúp đỡ cho các nước đang phát triển có thể phát triển kinh tế xã hội một cách tự lực và bền vững
-Tăng cường hợp tác quốc tế của Nhật Bản.
* Nguyên tắc hoạt động
JICA áp dụng 3 nguyên tắc sau trong các hoạt động viện trợ của mình để tiến hành cải cách các hoạt động tại nước nhận viện trợ và thực hiện hợp tác quốc tế một cách toàn diện với chất lượng cao:
-Speed-up: Đẩy nhanh hợp tác viện trợ từ khâu chuẩn bị đến khi thực hiện
-Scale-up: Mở rộng quy mô viện trợ
-Spread-out: Nhân rộng các kết quả viện trợ
II. Tình hình viện trợ ODA của Nhật Bản
2.1 Quá trình phát triển của JICA tại Việt Nam
1992
JICA bắt đầu các hoạt động hợp tác tại Việt Nam bằng việc cử chuyên gia Nhật Bản sang Việt Nam và tiếp nhận học viên đi đào tạo tại Nhật Bản
1994
Ký kết Công hàm về Cử Tình nguyện viên Hợp tác Hải ngoại Nhật Bản
1995
Chính thức thành lập Văn phòng JICA Việt Nam tại Hà Nội
Bắt đầu cử Tình nguyện viên Hợp tác Hải ngoại Nhật Bản
1998
10/1999
Ký kết Hiệp định Hợp tác Kỹ thuật Việt Nam – Nhật Bản
Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) được thành lập từ việc sáp nhập hai tổ chức: OECF và Ngân hàng Xuất-Nhập khẩu Nhật Bản (JEXIM)
2002
Thành lập Văn phòng Liên lạc JICA tại TP Hồ Chí Minh
10/2008
Hình thành JICA Mới (Bộ phận vốn vay ODA của JBIC sát nhập với JICA thành JICA Mới)
2.2 Chính sách ODA của Nhật Bản dành cho VN
2.2.1 Hợp tác hỗ trợ về kinh phí
2.2.1.1 Hợp tác vay vốn
Đơn vị: Tỷ yên
Vốn vay ODA
Viện trợ không hoàn lại
Tổng cộng
Năm tài khóa 2008
83.2
1.4
84.6
Năm tài khóa 2009
145.6
3.5
1149.1
Năm tài khóa 2010
86.6
3.5
90.1
Năm tài khóa 2011
270
5.4
275.4
Tổng chi phí trong 20 năm
1.836
83.4
1914.9
Vào tháng 11/1992 Việt Nam được bắt đầu bằng vốn vay hàng hoá với khoản vay trị giá 45,5 tỉ Yên. Tiếp đó vào năm 1993, bắt đầu thực hiện vốn vay luôn đặt trọng tâm hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng – nền tảng cho phát triển kinh tế của Việt Nam. Tổng số vốn cam kết mỗi năm tài khoá tăng dần, với 95,1 tỉ Yên năm 2006; 97,9 tỉ Yên năm 2007; 83,2 tỉ Yên năm 2008 và đạt gần ngưỡng 100 tỉ Yên mỗi năm. Năm 2009 số vốn cam kết đạt mức kỉ lục 145,6 tỉ Yên bao