CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Bán hàng đóng vai trò rất quan trọng không chỉ đối với bản thân mỗi doanh nghiệp mà với cả sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Đối với doanh nghiệp, hoạt động bán hàng chính là điều kiện tiên quyết giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển, thông qua hoạt động bán hàng doanh nghiệp có được doanh thu, nhanh chóng thu hồi vốn kinh doanh đồng thời tạo ra lợi nhuận. Còn đối với nền kinh tế quốc dân thì việc thực hiện tốt khâu bán hàng là điều kiện để kết hợp chặt chẽ giữa lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ, thực hiện chu chuyển tiền mặt, ổn định và củng cố giá trị đồng tiền, là điều kiện để ổn định và nâng cao đời sống người lao động nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để thực hiện tốt quá trình bán hàng, rút ngắn thời gian luân chuyển hàng hóa từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Một trong những biện pháp được đưa ra là tổ chức tốt công tác kế toán bán hàng. Kế toán bán hàng là phần hành kế toán chủ yếu trong công tác kế toán của doanh nghiệp, có vai trò hết sức quan trọng góp phần đắc lực trong hoạt động bán hàng của mỗi doanh nghiệp, cung cấp thông tin nhanh chóng để từ đó các nhà quản trị phân tích đánh giá lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả.
Ngày nay khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã mở ra cho các doanh nghiệp rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít những thách thức to lớn. Từ khi tham gia vào một tổ chức lớn như vậy nước ta đã có những thay đổi về đường lối và chính sách nhằm phù hợp với sự phát triển chung của thế giới. Hệ thống chuẩn mực của nước ta ra đời cũng nhằm mục đích hoàn thiện hơn công tác kế toán tại mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên hệ thống chuẩn mực vẫn đang trong giai đoạn bổ sung và hoàn thiện nên cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót gây khó khăn cho người sử dụng.
Qua quá trình học tập tại trường và thời gian tìm hiểu thực tế tại công ty em thấy công tác hạch toán kế toán bán hàng đang là vấn đề rất quan trọng và cần phải giải quyết để góp phần hoàn thiện hơn chính vì vậy mà em đã chọn đề tài:
Kế toán bán nhóm hàng dây chuyền thiết bị tại Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại – Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam.
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu trong dề tài.
Về lý luận: Đề tài nghiên cứu các vấn đề cơ bản về kế toán bán hàng như khái niệm về các vấn đề có liên quan như doanh thu và các khoản giảm trừ doanh thu, cách hạch toán kế toán bán hàng. Nghiên cứu các quy định, chuẩn mực có liên quan đến kế toán bán hàng như chuẩn mực 14 “Doanh thu và thu nhập khác” và chuẩn mực 02 “Hàng tồn kho”. Bên cạnh đó cần phải tìm hiểu chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định 15/2006/TT-BTC, các thông tư hướng dẫn do Nhà nước ban hành. Tìm hiểu về đặc điểm, cách hạch toán kế toán bán hàng và các trường hợp phát sinh trong quá trình bán.
Về thực trạng: Đề tài tìm hiểu và nghiên cứu về kế toán bán dây chuyền máy móc thiết bị tại Công ty tư vấn đầu tư và thương mại – Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Khảo sát thực trạng kế toán bán hàng, nghiên cứu về việc ghi nhận, xác định doanh thu của đơn vị nghiên cứu và các trường hợp phát sinh trong quá trình bán hàng.
47 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2982 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế toán bán nhóm hàng dây chuyền thiết bị tại Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại – Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Bán hàng đóng vai trò rất quan trọng không chỉ đối với bản thân mỗi doanh nghiệp mà với cả sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Đối với doanh nghiệp, hoạt động bán hàng chính là điều kiện tiên quyết giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển, thông qua hoạt động bán hàng doanh nghiệp có được doanh thu, nhanh chóng thu hồi vốn kinh doanh đồng thời tạo ra lợi nhuận. Còn đối với nền kinh tế quốc dân thì việc thực hiện tốt khâu bán hàng là điều kiện để kết hợp chặt chẽ giữa lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ, thực hiện chu chuyển tiền mặt, ổn định và củng cố giá trị đồng tiền, là điều kiện để ổn định và nâng cao đời sống người lao động nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để thực hiện tốt quá trình bán hàng, rút ngắn thời gian luân chuyển hàng hóa từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Một trong những biện pháp được đưa ra là tổ chức tốt công tác kế toán bán hàng. Kế toán bán hàng là phần hành kế toán chủ yếu trong công tác kế toán của doanh nghiệp, có vai trò hết sức quan trọng góp phần đắc lực trong hoạt động bán hàng của mỗi doanh nghiệp, cung cấp thông tin nhanh chóng để từ đó các nhà quản trị phân tích đánh giá lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả.
Ngày nay khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã mở ra cho các doanh nghiệp rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít những thách thức to lớn. Từ khi tham gia vào một tổ chức lớn như vậy nước ta đã có những thay đổi về đường lối và chính sách nhằm phù hợp với sự phát triển chung của thế giới. Hệ thống chuẩn mực của nước ta ra đời cũng nhằm mục đích hoàn thiện hơn công tác kế toán tại mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên hệ thống chuẩn mực vẫn đang trong giai đoạn bổ sung và hoàn thiện nên cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót gây khó khăn cho người sử dụng.
Qua quá trình học tập tại trường và thời gian tìm hiểu thực tế tại công ty em thấy công tác hạch toán kế toán bán hàng đang là vấn đề rất quan trọng và cần phải giải quyết để góp phần hoàn thiện hơn chính vì vậy mà em đã chọn đề tài:
Kế toán bán nhóm hàng dây chuyền thiết bị tại Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại – Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam.
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu trong dề tài.
Về lý luận: Đề tài nghiên cứu các vấn đề cơ bản về kế toán bán hàng như khái niệm về các vấn đề có liên quan như doanh thu và các khoản giảm trừ doanh thu, cách hạch toán kế toán bán hàng. Nghiên cứu các quy định, chuẩn mực có liên quan đến kế toán bán hàng như chuẩn mực 14 “Doanh thu và thu nhập khác” và chuẩn mực 02 “Hàng tồn kho”. Bên cạnh đó cần phải tìm hiểu chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định 15/2006/TT-BTC, các thông tư hướng dẫn do Nhà nước ban hành. Tìm hiểu về đặc điểm, cách hạch toán kế toán bán hàng và các trường hợp phát sinh trong quá trình bán.
Về thực trạng: Đề tài tìm hiểu và nghiên cứu về kế toán bán dây chuyền máy móc thiết bị tại Công ty tư vấn đầu tư và thương mại – Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Khảo sát thực trạng kế toán bán hàng, nghiên cứu về việc ghi nhận, xác định doanh thu của đơn vị nghiên cứu và các trường hợp phát sinh trong quá trình bán hàng.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu chung: Bán hàng đóng một vai trò rất quan trọng không chỉ đối với bản thân mỗi doanh nghiệp mà đối với sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Thông qua việc nghiên cứu đề tài tác giả hệ thống hóa lý luận bên cạnh việc tìm hiểu thực tế về kế toán bán hàng và những vấn đề liên quan trong quá trình bán. Tìm hiểu rõ bản chất của kế toán tìm ra những tồn tại và nguyên nhân của tồn tại đó từ đó đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng.
Mục tiêu cụ thể:
Về lý luận: Thông qua các quy định trong chuẩn mực và chế độ làm rõ hơn bản chất của kế toán bán hàng.
Về thực trạng: Thông qua tìm hiểu thực tế khảo sát kế toán bán hàng tại công ty, tác giả tìm ra những ưu điểm của doanh nghiệp và những bất cập còn tồn tại và những nguyên nhân của bất cập đó trong hệ thống kế thống kế toán bán hàng. Từ việc phân tích những bất cập còn tồn tại tác giả đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng tại đơn vị thực tập.
1.4. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài chủ yếu nghiên cứu về kế toán nghiệp vụ bán hàng ở tại công ty Tư vấn đầu tư và Thương Mại – Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Số liệu nghiên cứu tập trung ở trong tháng 1 năm 2009. Đề tài chỉ giới hạn ở nhóm sản phẩm dây chuyền thiết bị còn các sản phẩm khác không thuộc đối tượng nghiên cứu của đề tài.
1.5. Kết cấu luận văn.
Với phạm vi của đề tài nghiên cứu nêu trên thì ngoài các phần lời cám ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ hình vẽ, danh mục từ viết tắt, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn của em có kết cấu gồm 4 chương sau:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài.
Chương 2: Một số vấn đề lý luận cơ bản về kế toán nghiệp vụ bán hàng.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và thực trạng kế toán nghiệp vụ bán hàng tại Công ty tư vấn đầu tư và thương mại.
Chương 4: Các kết luận và giải pháp hoàn thiện kế toán nghiệp vụ bán nhóm hàng dây chuyền thiết bị tại Công ty tư vấn đầu tư và thương mại.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG
2.1.Một số định nghĩa và khái niệm cơ bản.
Bán hàng là khâu cuối cùng trong quá trình hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp thương mại, nó chính là quá trình chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa từ tay người bán sang tay người mua để nhận quyền sở hữu về tiền tệ hoặc quyền được đòi tiền ở người mua.
Bán hàng trong các doanh nghiệp được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau trong đó có hai hình thức chính là bán buôn và bán lẻ.
Bán buôn hàng hóa là phương thức bán hàng cho các đơn vị thương mại, các doanh nghiệp sản xuất... để thực hiện bán ra hoặc để gia công chế biến rồi bán ra.
Bán lẻ hàng hóa là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc các tổ chức kinh tế hoặc các đơn vị tập thể mua về mang tính chất tiêu dùng nội bộ.
Khi việc bán hàng được hoàn thành thì doanh thu bán hàng được ghi nhận theo quy định của VAS 14.
Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
Doanh thu bán hàng là một phần trong tổng doanh thu. Doanh thu bán hàng là tổng số tiền thu được hoặc sẽ thu được từ các giao dịch và nghiệp vụ phát sinh doanh thu như bán sản phẩm hàng hóa bao gồm các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán nếu có.
Trong quá trình bán hàng do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan có thể phát sinh trường hợp làm giảm trừ doanh thu như chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, chiết khấu thanh toán.
Chiết khấu thương mại là khoản doanh nghiệp bán giảm giá niêm yết cho khách hàng mua hàng với khối lượng lớn.
Giảm giá hàng bán là khoản giảm trừ cho người mua do hàng hóa kém phẩm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu.
Giá trị hàng bán bị trả lại là giá trị khối lượng hàng bán đã xác định là tiêu thụ bị khách hàng trả lại hoặc từ chối thanh toán.
Chiết khấu thanh toán là khoản tiền người bán giảm trừ cho người mua do người mua thanh toán tiền mua hàng trước thời hạn hợp đồng.
2.2. Lý thuyết cơ bản về kế toán bán hàng.
2.2.1. Chứng từ kế toán.
Các doanh nghiệp khác nhau thì có các phương thức bán hàng khác nhau, tùy vào mỗi phương thức sẽ có các chứng từ phù hợp.
Đối với doanh nghiệp chuyên bán buôn thì sử dụng các chứng từ như:
Hóa đơn giá trị gia tăng (đối với doanh nghiệp nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ), hóa đơn bán hàng thông thường (đối với doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp trực tiếp hoặc doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng không chịu thuế giá trị gia tăng), phiếu xuất kho, các chứng từ phản ánh tình hình thanh toán, các chứng từ về chi phí phát sinh trong quá trình bán hàng, hợp đồng kinh tế với khách hàng ....
Đối với doanh nghiệp chuyên bán lẻ thì sử dụng các chứng từ sau:
Bảng kê bán lẻ hàng hóa hoặc hóa đơn giá trị gia tăng, phiếu xuất kho, các chứng từ phản ánh tình hình thanh toán, các chứng từ về chi phí phát sinh trong quá trình bán hàng ...
Đối với doanh nghiệp gửi bán hàng theo phương thức bán hàng đại lý sử dụng các chứng từ sau:
Khi xuất hàng cho bên nhận đại lý kế toán lập phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ hoặc giấy điều động nội bộ. Khi hàng đã bán được thì căn cứ vào bảng kê hàng hóa bán ra của bên nhận đại lý bên giao đại lý xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho hàng bán ra. Bên giao đại lý sẽ xuất hóa đơn giá trị gia tăng hoa hồng đại lý để bên giao đại lý hạch toán.
2.2.2. Vận dụng tài khoản.
Doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều phương thức bán hàng khác nhau như bán trực tiếp, gửi bán, đại lý... nhưng đều phải tuân thủ các quy định của chuẩn mực về việc ghi nhận doanh thu. Theo quy định của chuẩn mực kế toán số 14 – “Doanh thu và thu nhập khác” thì doanh thu bán hàng chỉ được ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn tất cả 5 điều kiện sau:
* Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa cho người mua.
Những rủi ro mà doanh mà doanh nghiệp có thể gặp phải như hàng hóa có thể bị hư hỏng, kém phẩm chất, lạc hậu về mẫu mã và thị hiếu...
Trường hợp doanh nghiệp vẫn còn chịu phần lớn rủi ro gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa thì giao dịch không được coi là hoạt động bán hàng và doanh thu không được ghi nhận. Doanh nghiệp còn phải chịu rủi ro gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa dưới nhiều hình thức khác nhau như:
- Doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm để đảm bảo cho tài sản được hoạt động bình thường mà không nằm trong các điều khoản bảo hành thông thường.
- Khi việc thanh toán tiền hàng còn chưa chắc chắn vì phụ thuộc vào người mua hàng hóa đó.
- Khi hàng hóa được giao còn chờ lắp đặt và việc lắp đặt đó là một phần quan trọng của hợp đồng mà doanh nghiệp chưa hoàn thành.
- Khi người mua có quyền hủy bỏ việc mua hàng vì một lý do nào đó được nêu trong hợp đồng mua bán và doanh nghiệp chưa chắc chắn về khả năng hàng bán có bị trả lại hay không.
Những lợi ích mà doanh nghiệp sẽ đạt được là khoản tiền thu được từ việc bán hàng hóa hoặc lợi nhuận ước tính từ việc sử dụng hàng hóa, thu nhập ước tính từ sự tăng giá trị hàng hóa.
Khi doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn những rủi ro và những lợi ích kể trên thì mới có thể được xác định doanh thu tiêu thụ.
* Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hàng hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa.
Trong hầu hết các trường hợp thì thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro trùng với thời điểm chuyển giao lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền kiểm soát hàng hóa cho người mua. Tuy nhiên trong một số trường hợp lại có sự tách rời hai quyền này. Ta có thấy rõ nhất trong trường hợp mua bán hàng trả góp, lúc này quyền quản lý và quyền kiểm soát đã được chuyển giao nhưng quyền kiểm soát chưa được chuyển giao. Điều này có nghĩa là phần lớn rủi ro và lợi ích của việc sở hữu hàng hóa gắn liền với quyền kiểm soát quản lý được chuyển giao cho người mua mặc dù quyền sở hữu hợp pháp thuộc về người bán. Người bán chỉ thực sử trở thành chủ sở hữu khi đã hoàn thành xong nghĩa vụ thanh toán.
* Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
Doanh nghiệp cần xác định được giá trị tương đương của khoản đã thu hoặc sẽ thu được trong tương lai.
* Doanh thu đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng.
Doanh thu chỉ được ghi nhận khi đã tương đối chắc chắn rằng doanh nghiệp nhận được lợi ích từ các giao dịch. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc “ thận trọng ” của chuẩn mực 01: “ Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế ”.
* Xác định chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng
Khi thu được một khoản doanh thu tức là khi đó cũng đã phát sinh chi phí. Theo nguyên tắc “ phù hợp ” của chuẩn mực 01 “ Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả liên quan đến doanh thu của kỳ đó ”.
Khi thỏa mãn đủ cả 5 điều kiện thì doanh thu được ghi nhận vào tài khoản 511 “Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” theo giá bán chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Còn đối với trường hợp bán trả góp thì giá bán được xác định trên giá bán trả ngay chưa có thuế còn phần chênh lệch giữa giá bán trả ngay và giá bán trả góp được ghi nhận vào tài khoản 338 (3387).
Còn đối với các trường hợp hàng hóa xuất ra để trả lương cho cán bộ nhân viên, xuất để tiêu dùng nội bộ không phục vụ cho mục đích kinh doanh, biếu tặng... được ghi nhận vào tài khoản 512 “Doanh thu nội bộ” theo giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng.
Ngoài các trường hợp bán hàng trên, doanh nghiệp còn thực hiện trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ với doanh nghiệp khác. Khi hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hóa dịch vụ tương tự về bản chất và giá trị thì việc trao đổi đó không được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu nên không được ghi nhận vào tài khoản 511.Lúc này kế toán không lập hóa đơn giá trị gia tăng chỉ lập phiếu xuất kho cho hàng đem đổi và phiếu nhập kho cho hàng được nhận về. Còn khi hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hóa hoặc dịch vụ khác không tương tự về bản chất và giá trị thì việc trao đổi đó được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu. Trường hợp này doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ nhận về, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu thêm. Khi không xác định được giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ nhận về thì doanh thu được xác định được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa dịch vụ đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu thêm. Khi doanh nghiệp nhận hàng trước rồi mới trả hàng sau thì hàng hóa coi như mua chịu, kế toán sẽ phản ánh giá trị của hàng hóa nhận về trước vào tài khoản 156. Khi trả hàng kế toán mới ghi nhận doanh thu theo giá trị hợp lý của hàng hóa đem trao đổi vào tài khoản 511. Còn đối với trường hợp doanh nghiệp giao hàng trước rồi mới nhận hàng về sau thì hàng hóa coi như bán chịu. Khi giao hàng kế toán phản ánh doanh thu theo giá trị hợp lý của hàng đem trao đổi vào tài khoản 511 sau khi nhận hàng thì kế toán ghi nhận vào tài khoản 156 theo giá hợp lý của hàng hóa nhận về theo giá chưa thuế giá trị gia tăng.
Khi doanh nghiệp áp dụng phương thức gửi hàng thì khi xuất hàng đem gửi thì kế toán theo dõi trên tài khoản 157. Khi hàng gửi bán xác định là tiêu thụ đã thỏa mãn điều kiện ghi nhận doanh thu thì mới được phản ánh vào tài khoản 511.
Trong các trường hợp doanh nghiệp xuất đi gửi bán nhưng lại thừa so với hợp đồng thì kế toán ghi nhận vào tài khoản 338 (3381), còn trường hợp xuất hàng thiếu thì kế toán ghi nhận vào tài khoản 138 (1381). Đối với doanh nghiệp gửi bán đại lý thì chi phí hoa hồng đại lý kế toán hạch toán vào tài khoản 641 là số phần trăm hoa hồng phải trả cho bên nhận đại lý. Các chi phí phát sinh trong quá trình gửi hàng đại lý nếu doanh nghiệp phải chịu thì hạch toán vào tài khoản 641 còn nếu doanh nghiệp chỉ chi hộ cho bên nhận đại lý thì hạch toán vào tài khoản 138 (1388).
Đồng thời với việc ghi nhận doanh thu thì kế toán phải ghi nhận giá vốn thì mới phản ánh đúng quy định của chuẩn mực : “Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó”. Theo quy định của VAS 02 thì việc xác định giá vốn theo một trong các phương pháp sau:
* Phương pháp giá thực tế đích danh. Theo phương pháp này sản phẩm, hàng hoá xuất kho thuộc lô hàng nhập nào thì lấy đơn giá nhập kho của lô hàng đó để tính. Đây là phương án tốt nhất, nó tuân thủ nguyên tắc phù hợp của kế toán; chi phí thực tế phù hợp với doanh thu thực tế. Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù hợp với doanh thu mà nó tạo ra. *Phương pháp giá bình quân: Phương pháp bình quân có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập một lô hàng , phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp.
*Phương pháp nhập trước xuất trước(FIFO): Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng còn lại cuối kỳ là hàng được mua hoặc sản xuất ở thời điểm cuối kỳ.
* Phương pháp nhập sau - xuất trước(LIFO) Phương pháp này giả định là hàng được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là những hàng được mua hoặc sản xuất trước đó.
Trong kỳ còn có nhiều trường hợp phát sinh làm giảm doanh thu. Trường hợp phát sinh chiết khấu thương mại giảm trừ cho khách hàng kế toán ghi nhận vào tài khoản 521. Đối với hàng kém phẩm chất doanh nghiệp phải giảm giá thì được ghi nhận vào tài khoản 532. Ngoài ra còn có trường hợp hàng doanh nghiệp đem xuất bán nhưng do một lý do nào đó khách hàng không chấp nhận và trả lại hàng bán thì hạch toán vào tài khoản 531. Cuối kỳ phải có bút toán kết chuyển các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại và chiết khấu thương mại về tài khoản 511 để xác định doanh thu trong kỳ.
2.2.3. Tổ chức sổ kế toán.
Khi các nghiệp vụ phát sinh kế toán mở các sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết theo dõi doanh thu và giá vốn. Tùy theo mỗi hình thức kế toán thì kế toán phải mở các sổ khác nhau phù hợp với quy định của chế độ.
2.3. Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Bán hàng có vai trò quan trọng không chỉ đối với bản thân mỗi doanh nghiệp mà với cả sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Nhận biết được vai trò và tầm quan trọng của bán hàng nhiều nhà nghiên cứu đã có những công trình tìm hiểu về đề tài này. Song đối với mỗi tác phẩm nghiên cứu thì tác giả lại đề cập đến vấn đề này ở các góc độ khác nhau.
Với đề tài “Kế toán bán hàng ở công ty cổ phần Tràng An trong điều kiện vận dụng chuẩn mực kế toán 14 Doanh thu và thu nhập khác” tác giả Hoa Phong Lan (Trường Đại học Thương Mại) – 2006. Sau khi đã đưa ra những tồn tại của doanh nghiệp, tác giả đã có một số đề xuất sau:
Do doanh nghiệp khi xuất hàng bán đã không sử dụng phiếu xuất kho mà sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng thay cho phiếu xuất vì vậy tác giả đã đề nghị phải sử dụng thêm cả phiếu xuất kho cho mỗi nghiệp vụ bán hàng. Bên cạnh đó tác giả còn đưa ra mẫu phiếu xuất kho để doanh nghiệp có thể áp dụng, biện pháp này đưa ra rất phù hợp với thực trạng của doanh nghiệp. Nhưng tác giả mới chỉ đưa ra mẫu phiếu mà không chỉ rõ rằng phiếu này sẽ gồm mấy liên và quá trình luân chuyển chứng từ xuất kho được như thế nào.
Doanh nghiệp có tồn tại trong việc vận dụng tài khoản không đúng so với chế độ. Như khi khách hàng trả tiền hàng sớm thì kế toán hạch toán vào tài khoản 641 tác giả đã đề nghị phải hạch toán vào tài khoản 635. Khi phát sinh hàng bán bị trả lại phải hạch toán vào tài khoản 531 thay vì ghi nhận vào tài khoản 811 như kế toán ở doanh nghiệp vẫn làm. Trong biện pháp này tác giả mới chỉ nói về cách hạch toán mà chưa đề cập đến doanh nghiệp có sử dụng các chứng từ nào để chứng minh những nghiệp vụ hay không, hay là việc theo dõi sổ kế toán diễn ra như thế nào. Biện pháp này vẫn chưa mang tính chất áp dụng cao, việc đưa ra phương pháp hạch toán là cần thiết nhưng vẫn chưa đủ để có thể áp dụng được.
Hiện tại ở doanh nghiệp này việc khách hàng trả chậm diễn ra rất phổ biến mà doanh nghiệp lại chưa trích lập dự phòng nên tác giả đã đề nghị phải trích lập dự phòng phải thu khó đòi. Điều này cũng chưa được phù hợp bởi các khách hàng của doanh nghiệp tuy là trả chậm tiền hàng nhưng có thể họ là những khách hàng quen biết lâu năm nên có thể giành cho họ những ưu đãi như có thể trả chậm tiền hàng. Về nguyên tắc lập dự phòng phải thu khó đòi chỉ được lập khi có những bằng chứng đáng tin cậy về khoản nợ phải thu khó đòi ( khách hàng bị phá sản hoặc bị tổn thất,