KẾ TOÁN HẠCH TOÁN THÀNH PHẨM TIÊU THỤ VÀ XÁC
ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH
I. Hạch toán thành phẩm
1.Thành phẩm
Là sản phẩm đã kết thúc quy trình chế biến trong doanh nghiệp hoặc thuê ngoài gia công chế biến đã xong được kiểm nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật được nhập kho hay đem bán thẳng.
Nhiệm vụ của kế toán thành phẩm tiêu thụ và xác định kết quả:
-Tổ chức ghi chép, phản ánh chính xác kịp thời,đầy đủ tình hình nhập - xuất - tồn kho thành phẩm, tình hình tiêu thụ sản phẩm, tình hình thanh toán với người mua, với ngân sách nhà nước.
Phản ánh chính xác chi phí bán hàng, chi phi quản lý doanh nghiệp, chi phí thu nhập của hoạt động khác,xác định kết quả kinh doanh của từng thời kỳ, từng mặt hoạt động.
-Hạch toán chính xác, kịp thời tình hình phân phối lợi nhuận
-Tham gia kiểm kê đánh giá thành phẩm, lập báo cáo về tình hình tiêu thụ thành phẩm, báo cáo kết quả kinh doanh định kỳ, phân tícha tình hình tiêu thụ kết quả kinh doanh và phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp.
Thành phẩm trong doanh nghiệp luôn có sự biến động để phụ vụ hạch toán kịp thời chính xác giá trị thành phẩm xuất kho,thành phẩm được dánh giá theo giá thực tế và giá hạch toán.
Đánh giá thành phẩm theo giá thực tế:
*Nhập kho:căn cứ vào nguồn nhập để xác định cho phù hợp. Cụ thể:
Sản phẩm do doanh nghiệp tự sản xuẩt ra được xác định theo giá thành sản xuất thực tế:
Zsx=Dđk + C - Dck
*Xuất kho: Giá thực tế thành phẩm có thể tính theo một trong các phương pháp sau:
Đơn giá bình quân nhập trước xuất trước, nhập sau xuất trước
Đánh giá thành phẩm theo giá hạch toán
Giá hạch toán một thành phẩm do phòng kế toán quy định (có thể là giá kế hoạch hoặc giá nhập kho thống nhất) được sử dụng ổn định trong một năm. Việc thanh toán chi tiết nhập-xuất kho thành phẩm hàng ngày thực hiện theo giá hạch toán. Cuối tháng căn cứ vào tổng giá thành thực tế và tổng giá thành kế hoạch của thành phẩm tồn đầu kỳ, nhập trong kỳ để xác định hệ số chênh lệch giá (H)
Giá thực tế TP tồn đầu kỳ+Giá thực tế TP nhập trong kỳ
Giá hạch toán TP tồn đầu kỳ+Giá hạch toán TP nhập trong kỳ
2.Hạch toán chi tiết thành phẩm:
Công ty sử dụng phương pháp sổ số dư
Ở kho:Thủ kho sử dụng thẻ kho để ghi chép phản ánh tình hình nhập-xuất-tồn kho của từng loại thành phẩm theo chỉ tiêu số lượng.
Hàng ngày khi nhập được chứng từ nhập xuất thành phẩm,thủ kho tiến hành, kiểm tra tính hợp lý của từng chứng từ,ghi sổ lượng thực tế của từng vật liệu nhập-xuất-tồn vào chứng từ,phân loại chứng từ.
Cuối tháng thủ kho tính ra số tồn kho cuối tháng,kế toán xắp xếp lại chứng từ và căn cứ vào thẻ kho để ghi sổ số dư số lượng và thành phẩm tồn kho cuối tháng rồi giao sổ số dư cho phong kế toán khi công việc đã hoàn tất.
Ở phòng kế toán:Do khối lượng ghi chép của phòng kế toán nhiều nên kế toán không phải mở tất cả thẻ kho cho tất cả thành phẩm. Từ 3-5 ngày kế toán xuống kho để kiểm tra tình hình ghi chép của thủ kho nhận lại chứng từ và ghi vào sổ giao nhận chứng từ của thủ kho để ghi vào bảng luỹ kế nhập,xuất, tồn của từng loại thành phẩm theo chỉ tiêu giá trị.
Cuối tháng lập bảng nhập-xuất-tồn của từng loại thành phẩm
*Ưu điểm của phương pháp này:giảm bớt việc ghi chép trùng lặp giữa kho và phòng kế toán, cung cấp thông tin cho quản lý kịp thời. Công việc dàn đều trong tháng kết hợp chặt chẽ giữa kho và phòng kế toán
*Nhược điểm của phương pháp này: chưa theo dõi chi tiết đến từng thứ. Cung cấp thông tin về nhập-xuất-tồn chỉ căn cứ vào thủ kho.Việc kiểm tra đối chiếu phát hiện sai sót nhầm lẫn rất phức tạp. Chỉ áp dụng cho doanh nghiệp có nhiều chủng loại vật tư,việc nhập xuất vật tư diễn ra thường xuyên và có hệ số giá.Đòi hỏi nhân viên kế toán có trình độ cao.
3. Hạch toán tổng hợp thành phẩm
80 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2553 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty in Công Đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam từ sau Đại hội VI của Đảng đã có những chuyển biến quan trọng, đặc biệt là việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần, hoạt động có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố tiền. Vậy để tiến hành quá trình sản xuất hàng hoá người sản xuất phải bỏ ra chi phí về thù lao, về sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà sản xuất.
Trong công tác quản lý doanh nghiệp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những yếu tố chỉ tiêu quan trọng luôn được các doanh nghiệp quan tâm vì chúng gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua số liệu do bộ phận kế toán cung cấp, các nhà quản lý kinh doanh được biết chi phí và giá thành thực tế của từng loại sản phẩm cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó đánh giá thực hiện các định mức tiêu hao, tình hình sử dụng tài sản, vật tư… và có quyết định quản lý phù hợp. Vì thế công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm là nhiệm vụ quan trọng trong toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp, giúp làm tăng tích luỹ cho nền kinh tế đất nước nói chung và làm tăng lợi nhuận doanh nghiệp nói riêng để từ đó cải thiện đời sống cho người lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kế toán chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và sau một thời gian đi thực tập tại Công ty in Công Đoàn, được đi sâu tìm hiểu thực trạng sản xuất kinh doanh của Công ty, cùng với sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của cô giáo Bùi Thúy Vân và sự hướng dẫn của cán bộ phòng kế toán, em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: "Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty in Công Đoàn".
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Các vấn đề chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.
Chương II: Thực tế công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty in Công Đoàn.
Chương III: Nhận xét và kiến nghị về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty in Công Đoàn.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành chuyên đề thực tập nhưng do điều kiện thời gian và sự hiểu biết có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong các thầy cô giáo giúp đỡ và chỉ bảo để em có điều kiện học hỏi và nâng cao kiến thức của mình hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN XUẤT TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I. ĐẶC ĐIỂM TỔ CHỨC SẢN XUẤT CỦA NGÀNH SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
Hoạt động sản xuất xã hội được tiến hành trong nhiều ngành kinh tế. Mỗi ngành kinh tế đều có đặc điểm kinh tế đặc trưng, do đó ảnh hưởng quan trọng đến công tác tổ chức và hoạt động của kế toán.
Trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, việc tổ chức công tác kế toán, vận dụng các phương pháp kỹ thuật hạch toán, đặc biệt là vận dụng phương pháp kế toán tập hợp, phân bổ chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm trong phạm vi ngành sản xuất công nghiệp bắt nguồn từ những đặc điểm của quy trình công nghệ kỹ thuật và tổ chức sản xuất, từ tính đa dạng và khối lượng sản phẩm được sản xuất ra, nói cách khác là bắt nguồn từ loại hình sản xuất của doanh nghiệp. Vậy, nghiên cứu loại hình sản xuất của doanh nghiệp sẽ giúp cho việc tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp được hợp lý, đúng đắn và do đó phát huy được chức năng, vai trò và vị trí của kế toán trong công tác kế toán, quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp nói chung và quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm nói riêng.
II. KHÁI NIỆM CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ CÁC CÁCH PHÂN LOẠI CHI PHÍ SẢN XUẤT CHỦ YẾU.
1. Khái niệm chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ…).
2. Các cách phân loại chi phí sản xuất chủ yếu
Chi phí sản xuất có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau về cả nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí… trong quá trình kinh doanh. Để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất kinh doanh vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định.
Xét về mặt lý luận cũng như trên thực tế, có rất nhiều cách phân loại khác nhau. Mỗi cách phân loại đều đáp ứng được ít nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm soát chi phí phát sinh… ở các góc độ khác nhau. Vì thế các cách phân loại đều bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm.
- Phân loại chi phí sản xuất theo tính chất kinh tế (Yếu tố chi phí)
Để cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, lập kiểm tra và phân tích dự toán chi phí, các yếu tố chi phí có thể được chi tiết hoá theo nội dung kinh tế cụ thể của chúng. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý ở mỗi nơi mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có thể khác nhau. Căn cứ vào tiêu thức trên, chi phí sản xuất được phân chia thành các yếu tố chi phí cơ bản sau:
+ Yếu tố nguyên vật liệu
Bao gồm toàn bộ giá trị của các loại nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ xuất dùng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ báo cáo.
+ Yếu tố nhân công
Gồm toàn bộ chi phí trả cho người lao động (thường xuyên hay tạm thời) về tiền lương (tiền công), các khoản phụ cấp, trợ cấp có tính chất lương, tiền ăn giữa ca và các khoản trích theo lương (KPCĐ, BHXH, BHYT) trong kỳ báo cáo.
+ Yếu tố khấu hao tài sản cố định
Bao gồm chi phí khấu hao toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh kỳ báo cáo.
+ Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài
Bao gồm các chi phí về nhận cung cấp dịch vụ từ các đơn vị khác phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo.
+ Yếu tố chi phí khác bằng tiền
Bao gồm các chi phí sản xuất kinh doanh chưa được phản ánh ở các chỉ tiêu trên, đã chi bằng tiền trong kỳ báo cáo, như: tiếp khách, hội họp, thuê quảng cáo…
Tác dụng của cách phân loại chi phí sản xuất theo tính chất kinh tế như sau:
( Trong phạm vi quản lý vi mô: Phục vụ quản lý CPSX, làm căn cứ để lập báo cáo CPSX theo yếu tố lập kế hoạch dự trữ vật tư, kế hoạch tiền mặt, kế hoạch sử dụng lao động… kỳ kế hoạch.
( Trong phạm vi quản lý vĩ mô: Cung cấp tài liệu để tính toán thu nhập quốc dân.
- Phân loại chi phí sản xuất theo công dụng kinh tế (khoản mục chi phí)
Cách phân loại dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí theo từng đối tượng cũng như cách phân loại theo yếu tố, số lượng khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm tùy thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý và hạch toán của mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm của nước ta bao gồm 3 khoản mục chi phí:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu sử dụng trực tiếp cho hoạt động sản xuất, chế tạo sản phẩm.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: gồm các khoản phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ như: lương, các khoản phụ cấp lương, tiền ăn giữa ca và các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ).
+ Chi phí sản xuất chung: gồm những chi phí phát sinh tại bộ phận sản xuất (phân xưởng, đội, trại sản xuất…).
( Theo mối quan hệ với sản lượng sản xuất, khoản mục chi phí sản xuất chung bao gồm CPSXC cố định và CPSXC biến đổi:
+ CPSXC cố định là những chi phí sản xuất thường không thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất.
+ CPSXC biến đổi là những chi phí sản xuất thường thay đổi trực tiếp hoặc gần như trực tiếp theo số lượng sản phẩm sản xuất.
( Theo nội dung kinh tế, khoản mục chi phí sản xuất chung bao gồm các nội dung sau:
- Chi phí nhân viên phân xưởng: gồm các khoản tiền lương, các khoản phụ cấp, các khoản trích theo lương, tiền ăn ca của nhân viên quản lý phân xưởng, đội, bộ phận sản xuất.
+ Chi phí vật liệu: gồm những chi phí vật liệu dùng chung cho phân xưởng.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất :gồm những chi phí về công cụ, dụng cụ xuất dùng cho hoạt động quản lý của phân xưởng.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: gồm toàn bộ tiền trích khấu hao TSCĐ sử dụng trong phân xưởng.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: gồm các chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ cho hoạt động của phân xưởng, bộ phận sản xuất.
+ Chi phí bằng tiền khác: gồm các chi phí bằng tiền ngoài các chi phí đã kể trên phục vụ cho hoạt động của phân xưởng.
Phân loại chi phí sản xuất theo công dụng kinh tế của chi phí có tác dụng phục vụ cho việc quản lý CPSX theo định mức, dự toán chi phí, cung cấp số liệu cho việc tính giá thành sản xuất sản phẩm và phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành
- Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa CPSX với khối lượng sản phẩm sản xuất
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và điều tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh lại được phân chia thành biến phí và định phí.
+ Biến phí: là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về nguyên liệu, nhân công trực tiếp… Cần lưu ý rằng, các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định.
+ Định phí: là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh…. các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi.
Cách phân loại này có tác dụng lớn trong công tác quản trị kinh doanh, phân tích điểm hòa vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh.
III. Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
Quản lý chi phí sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, là sự cần thiết khách quan, là điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn đứng vững được trên thị trường thế giới nói chung và trong nước nói riêng thì trong sản xuất kinh doanh doanh nghiệp đó ngoài việc trang trải toàn bộ chi phí bằng thu nhập thì còn phải sinh lời - nghĩa là phải có lãi. Yêu cầu đó chỉ đạt được trên cơ sở sử dụng hợp lý và tiết kiệm các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn và đặc biệt là phải quản lý sản xuất. Muốn thực hiện tốt điều này thì biện pháp quan trọng mà mỗi doanh nghiệp phải quan tâm là không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm, hạch toán đúng, đủ chi phí thực tế bỏ ra, giá thành sản phẩm phải phản ánh chính xác, quản lý chi phí sản xuất thật tốt. Có như vậy mới đảm bảo bù đắp chi phí: hao phí lao động sống, lao động vật hóa trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, xác định chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
IV. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM, PHÂN LOẠI GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1. Khái niệm giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền tính cho một khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành trong điều kiện công suất bình thường.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất và quản lý sản xuất, là căn cứ quan trọng để xác định giá bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất
2. Phân loại giá thành sản phẩm
( Phân loại giá thành sản phẩm theo thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành
- Giá thành kế hoạch: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở CPSX kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch xác định trước khi tiến hành sản xuất.
Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành.
- Giá thành định mức: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở định mức CPSX hiện hành và chỉ tính cho một đơn vị sản phẩm. Việc tính giá thành định mức được thực hiện trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm.
Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để đánh giá kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động và giúp cho việc đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả SXKD.
- Giá thành thực tế: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu CPSX thực tế phát sinh tập hợp được trong kỳ và sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế được tính toán sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm.
Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
( Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán
- Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng): Bao gồm chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp; chi phí nhân công trực tiếp; chi phí sản xuất chung tính cho sản phẩm hoàn thành, dịch vụ đã cung cấp.
Giá thành sản xuất được sử dụng để ghi sổ kế toán thành phẩm đã nhập kho hoặc giao cho khách hàng và là căn cứ để doanh nghiệp tính giá vốn hàng bán, tính lợi nhuận gộp của hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ.
- Giá thành toàn bộ: Bao gồm giá thành sản xuất và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm đã bán.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm là căn cứ để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giá thành toàn bộ được tính theo công thức:
= + +
( Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Giữa chi phí và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí biểu hiện bằng mặt hao phí còn giá thành biểu hiện bằng mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt cùng một quá trình, vì vậy chúng giống nhau về bản chất.
Giá thành và chi phí sản xuất đều bao gồm hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình tạo ra sản phẩm. Tuy nhiên, do bộ phận chi phí sản xuất giữa các kỳ không đều nhau nên giá thành và chi phí sản xuất sẽ khác nhau về lượng.
Như vậy về bản chất chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm giống nhau: chúng đều là các hao phí về lao động và các chi phí khác của doanh nghiệp. Tuy vậy giữa chi phí và giá thành sản phẩm cũng có sự khác nhau. Nói đến chi phí sản xuất là xét các hao phí trong một thời kỳ, còn nói đến giá thành sản phẩm là xem xét đề cập đến mối quan hệ của chi phí đối với quá trình công nghệ sản xuất tạo ra sản phẩm, đó là hai mặt của một quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
V. ĐỐI TƯỢNG TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ ĐỐI TƯỢNG TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
- Khái niệm đối tượng tập hợp CPSX: Đối tượng tập hợp CPSX là phạm vi giới hạn mà CPSX cần phải tập hợp nhằm để kiểm tra, giám sát CPSX và phục vụ công tác tính giá thành sản phẩm thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp CPSX là xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí.
- Căn cứ để xác định đối tượng kế toán tập hợp CPSX:
+ Đặc điểm và công dụng của chi phí trong quá trình sản xuất
+ Đặc điểm cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp
+ Quy trình công nghệ sản xuất, chế tạo sản phẩm
+ Đặc điểm của sản phẩm (đặc tính kỹ thuật, đặc điểm sử dụng, đặc điểm thương phẩm…)
+ Yêu cầu và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh
- Các đối tượng tập hợp CPSX: Đối với ngành công nghiệp, đối tượng tập hợp CPSX có thể là loại sản phẩm, dịch vụ; nhóm sản phẩm cùng loại; chi tiết bộ phận sản phẩm; phân xưởng; bộ phận; giai đoạn công nghệ; đơn đặt hàng.
2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm
- Khái niệm đối tượng tính giá thành: Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng cần phải tính tổng giá thành và giá thành đơn vị.
- Căn cứ để xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm: Đặc điểm tổ chức sản xuất; quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm; yêu cầu và trình độ quản lý; trình độ ứng dụng máy vi tính trong công tác kế toán của doanh nghiệp.
* Xét về mặt tổ chức sản xuất
- Nếu tổ chức sản xuất đơn chiếc thì từng sản phẩm, từng công việc là đối tượng tính giá thành.
- Nếu tổ chức sản xuất hàng loạt hoặc sản xuất theo đơn đặt hàng thì đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm từng đơn đặt hàng.
- Nếu tổ chức sản xuất nhiều loại sản phẩm, khối lượng sản xuất lớn thì mỗi loại sản phẩm là một đối tượng tính giá thành.
* Xét về mặt quy trình công nghệ sản xuất
- Nếu quy trình công nghệ sản xuất giản đơn thì đối tượng tính giá thành thành phẩm hoàn thành ở cuối quy trình sản xuất.
- Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành là thành phẩm hoàn thành hoặc có thể là nửa thành phẩm tự chế biến.
- Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu song song thì đối tượng tính giá thành có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh.
- Các đối tượng tính giá thành sản phẩm:
+ Từng sản phẩm, công việc, đơn đặt hàng đã hoàn thành
+ Từng chi tiết, bộ phận sản phẩm.
VI. NHIỆM VỤ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
- Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành.
- Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại CPSX theo đúng đối tượng tập hợp CPSX và bằng phương pháp thích hợp. Cung cấp kịp thời những số liệu, thông tin tổng hợp về các khoản mục chi phí, yếu tố chi phí đã quy định, xác định đúng đắn giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ.
- Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính toán giá thành đơn vị của các đối tượng tính giá thành theo đúng khoản mục quy định và đúng kỳ tính giá thành sản phẩm đã xác định.
- Định kỳ cung cấp các báo cáo về CPSX và giá thành cho các cấp quản lý doanh nghiệp, tiến hành phân tích tình hình thực hiện các định mức và dự toán chi phí, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm. Phát hiện các hạn chế và khả năng tiềm tàng, đề xuất các biện pháp để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
VII. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VÀ ỨNG DỤNG TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP CHỦ YẾU.
1.Các phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử dụng số liệu CPSX đã tập hợp được trong kỳ và các tài liệu liên quan để tính toán tổng giá thành sản xuất giá thành đơn vị sản xuất thực tế của sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành theo từng đối tượng tính giá thành và từng khoản mục chi phí.
* Phương pháp trực tiếp (Còn gọi là phương pháp giản đơn) phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và có chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác
Công thức tính: Z = D ĐK + C - CCK
* Phương pháp tổng cộng chi phí: Phương pháp này được áp dụng với các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, quá trình sản xuất chế biến sản phẩm phải qua nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ. Đối tượng tập hợp CPSX là từng bộ phận (từng giai đoạn công nghệ), còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành ở các bước chế biến và thành phẩm hoàn thành ở bước cuối kỳ. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất và các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm.