Khái niệm và nhiệm vụ các quy định an toàn trong tổ chức tín dụng

1. Khái niệm Các quy định an toàn trong tổ chức tín dụng là các quy định của pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh một số hoạt động, cơ cấu vốn, tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và quỹ tín dụng nhân dân cơ sở nhằm đảm bảo an toàn cho các tổ chức này. 2. Nhiệm vụ Như chúng ta đã biết, các tổ chức tín dụng có vai trò cực kì quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Hoạt động của tổ chức tín dụng có nhiều rủi ro, như rủi ro phá sản, rủi ro trong thanh toán ,quan trọng hơn các tổ chức tín dụng đặc biệt như ngân hàng có mối liên hệ mật thiết với nhau, nên khi có 1 tổ chức tín dụng gặp rủi ro thì sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến những tổ chức tín dụng khác nhiều khi kéo theo cả sự khủng hoảng, sụp đổ của cả nền kinh tế của quốc gia, gây nên những hậu quả khủng khiếp và khó lường. Chính vì vậy mà nhà nước phải thật chú trọng đến việc đảm bảo an toàn, tránh những rủi ro cho các tổ chức tín dụng.

doc15 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2265 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khái niệm và nhiệm vụ các quy định an toàn trong tổ chức tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khái niệm và nhiệm vụ các quy định an toàn trong tổ chức tín dụng 1. Khái niệm Các quy định an toàn trong tổ chức tín dụng là các quy định của pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh một số hoạt động, cơ cấu vốn, tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và quỹ tín dụng nhân dân cơ sở nhằm đảm bảo an toàn cho các tổ chức này. 2. Nhiệm vụ Như chúng ta đã biết, các tổ chức tín dụng có vai trò cực kì quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Hoạt động của tổ chức tín dụng có nhiều rủi ro, như rủi ro phá sản, rủi ro trong thanh toán …,quan trọng hơn các tổ chức tín dụng đặc biệt như ngân hàng có mối liên hệ mật thiết với nhau, nên khi có 1 tổ chức tín dụng gặp rủi ro thì sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến những tổ chức tín dụng khác nhiều khi kéo theo cả sự khủng hoảng, sụp đổ của cả nền kinh tế của quốc gia, gây nên những hậu quả khủng khiếp và khó lường. Chính vì vậy mà nhà nước phải thật chú trọng đến việc đảm bảo an toàn, tránh những rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Các quy định an toàn trong tổ chức tín dụng 1. So sánh quyết định 457/2005/QĐ-NHNN và Thông tư Số: 13/2010/TT-NHNN Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành thông tư yêu cầu các các tổ chức tín dụng duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và hợp nhất từ mức 8% lên 9%, nhằm phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Trước tiên phải đề cập đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) , trung tâm của Thông tư 13. CAR = Vốn tự có/Tổng tài sản “Có” rủi ro. Nhìn vào tử số của công thức trên, vốn tự có là phép tính tổng của vốn cấp I và vốn cấp II. So với quy định trước đây trong Quyết định 457, thành phần vốn cấp I và vốn cấp II về cơ bản không có nhiều thay đổi, ngoại trừ ở điểm 2.2 điều 5 của Thông tư 13, theo đó các khoản vốn góp, mua cổ phần của công ty con sẽ bị loại trừ khỏi vốn cấp I. Như vậy ngay tại điểm này, ở một mức độ nào đó, chúng ta đã nhận thấy áp lực thoái vốn khỏi các công ty con đối với các NHTM, các tổ chức tín dụng.Trong khi đó, mẫu số tổng tài sản “Có” rủi ro được tính bằng “tổng tài sản “Có” x hệ số rủi ro tương ứng”. Cách tính mẫu số này không có gì mới và thực tế đã được áp dụng từ Quyết định 457, theo đó các khoản vay phục vụ kinh doanh bất động sản bị xếp vào nhóm có hệ số rủi ro cao nhất là 250%. Nhưng, đến Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN (năm 2008), các khoản cho vay để đầu tư vốn cũng đã được đưa vào nhóm rủi ro cao này. So với quyết định 457, thông tư mới có chỉnh sửa bổ sung các quy định về các tỷ lệ an toàn. Theo đó, về tỷ lệ an toàn vốn, nhằm phù hợp với tình hình thực tế hiện nay nhiều NHTM hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và nhằm tiến thêm một bước trong việc tuân thủ 25 nguyên tắc thanh tra cơ bản của Uỷ ban Basel, thông tư yêu cầu các TCTD duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và hợp nhất. Tỷ lệ được điều chỉnh lên 9% thay vì 8% như quy định tại quyết định 457. Về giới hạn tín dụng, sửa đổi bổ sung khái niệm khách hàng có liên quan và các giới hạn cho phù hợp với luật doanh nghiệp, yêu cầu quản lý trong thời gian tới. Về tỷ lệ khả năng chi trả, sửa đổi các tỷ lệ khả năng chi trả cụ thể hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bổ sung thêm tỷ lệ về dự trữ thanh khoản nhằm đánh giá mức độ dự trữ thanh khoản của các tổ chức tín dụng để xử lý kịp thời khi gặp khó khăn về thanh khoản. Về tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động, thông tư bổ sung quy định về tỷ lệ này nhằm tăng cường quản lý thanh khoản, khả năng huy động vốn của tổ chức tín dụng. Ngoài ra theo những quy định tại Khoản 5.5 thì hệ số rủi ro của những khoản vay đối với các khoản cho vay các công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết của tổ chức tín dụng đã được nâng lên 150% thay vì 100% như Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN 2. Phân tích Thông tư Số: 13/2010/TT-NHNN Các quy định của thông tư 13 chủ yếu tập trung điều chỉnh tỷ lệ an toàn tối thiếu (CAR), giới hạn tín dụng, tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ cấp tín dụng nhằm tăng cường hoạt động, giảm thiểu rủi ro của hệ thống các tổ chức tín dụng. Thực tế sau khi có hiệu lực thông tư đã có nhiều tác động đến thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Thứ nhất, tỷ  lệ CAR theo quy định mới được nâng lên 9% từ  mức 8% trước đó ( quyết định 457) .Theo chuẩn tính CAR, để đảm bảo CAR, hoặc tổ chức tín dụng cần tăng vốn tự có hoặc giảm mẫu tức tổng tài sản “Có” rủi ro. Việc tăng tử số luôn cần lộ trình và luôn khó khăn hơn so với biện pháp cơ cấu lại để cắt giảm tỷ lệ tài sản “Có” rủi ro. Mà trong cách tính tài sản có rủi ro, các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán và cho các Cty chứng khoán vay được gán chung một hệ số rủi ro là 250% (mức rủi ro cao nhất!). Như vậy, vô hình trung, để đảm bảo CAR, tín dụng cho đầu tư chứng khoán sẽ là khoản mục hàng đầu đưa vào danh sách điều chỉnh cắt giảm hoặc hạn chế. Như vậy, nguồn vốn giải ngân để rót vào TTCK sẽ càng bị thắt chặt. Thứ hai, Thông tư 13 cũng quy định tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động không được vượt quá  80% đối với ngân hàng và 85% đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Vốn huy động ở đây cũng không tính tiền gửi không kỳ hạn của các tổ  chức kinh tế, kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã  hội và các tổ chức khác. Mà theo Hiệp hội Ngân hàng VN, số vốn từ các nguồn này thường xuyên chiếm tới 15 - 20% tổng nguồn vốn huy động của TCTD. Vậy, số vốn thực có thể cho vay lại bị giảm tiếp khoảng 15% nữa. Với những quy định mới này, khả năng thực hiện giảm mặt bằng lãi suất cho vay sẽ càng khó khăn hơn, mục tiêu tăng trưởng tín dụng 25% càng khó đạt được. Với mức lãi suất thực tế mà các ngân hàng đang cho vay ở mức từ 13%, thậm chí còn cao hơn nhiều nếu vay đầu tư chứng khoán thì khó có lực cung tiền mạnh để hỗ trợ thị trường. Hơn nữa, với những quy định mới này, khả năng thực hiện giảm mặt bằng lãi suất cho vay sẽ càng khó khăn hơn, mục tiêu tăng trưởng tín dụng 25% càng khó đạt được. Với mức lãi suất thực tế mà các ngân hàng đang cho vay ở mức từ 13%, thậm chí còn cao hơn nhiều nếu vay đầu tư chứng khoán thì khó có lực cung tiền mạnh để hỗ trợ thị trường. Ưu điểm của thông tư 13 Như đã nói ở trên thông tư 13 có ít nhất 3 điểm mấu chốt gồm: (1) tăng hệ số đủ vốn; (2) hạn chế việc tham gia vào các hoạt động liên quan đến kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản của các ngân hàng thương mại; (3) tăng cường quy định về đảm bảo khả năng thanh khoản Nâng cao tiềm lực tài chính của các tổ chức tài chính Với việc nâng hệ số đủ vốn lên 9% trong Thông tư 13 và quy định về vốn pháp định tối thiểu theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ là cơ sở hết sức quan trọng để nâng cao tiềm lực tài chính của các tổ chức tài chính. Về lâu về dài chính sách nâng mức tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín dụng lên 9% sẽ giảm được vốn đầu tư gián tiếp, đi thẳng vào sản xuất kinh doanh và đưa các định chế tài chính Việt Nam tiến gần hơn với các mức chuẩn quốc tế trong khu vực Đối với quy định về vốn pháp định tối thiểu 3.000 tỷ đồng, thông lệ quốc tế đã không đưa ra bất kỳ một tiêu chuẩn hay giới hạn này vì quan điểm của họ đủ vốn là được. Tuy nhiên trong bối cảnh nếu để quy mô ngân hàng quá nhỏ, thì rất dễ để một cá nhân hay doanh nghiệp thâu tóm và biến ngân hàng thành một đơn vị huy động vốn cho họ. Việc quy định vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng và thậm chí còn cao hơn nữa sẽ có hai tác dụng. Thứ nhất, tránh tình trạng bị chi phối bởi một hay một vài cá nhân, điều đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thứ hai, giảm được vấn đề về tâm lý ỷ lại và lựa chọn bất lợi. Với một mức vốn đáng kể thì chủ sở hữu ngân hàng sẽ hành động có trách nhiệm hơn để bảo vệ tài sản của họ. Hơn thế những giới hạn về sở hữu, cấp tín dụng nhằm hạn chế sự lũng đoạn tổ chức tín dụng đã được quy định chặt chẽ trong các quy định hiện hành. Hạn chế ngân hàng thương mại tham gia vào các hoạt động kinh doanh nhiều rủi ro Thông tư 13 và các quy định hiện hành đã giới hạn khá chặt chẽ việc tham gia vào các hoạt động kinh doanh chứng khoán và bất động sản của các ngân hàng thương mại. Trong đó, điểm nổi bật trong quy định lần này là nâng trọng số rủi ro cho các khoản vay trong hai lĩnh vực này lên đến 250%. Một điểm cần lưu ý đối với cơ quan điều tiết trong lĩnh vực này là cần tăng cường hơn nữa việc tách bạch giữa các hoạt động của ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư, nhất là trong bối cảnh biên giới giữa hai lĩnh vực này đã mờ đi rất nhiều, nhất là việc cấp tín dụng và mua chứng khoán. Tăng cường khả năng và quản lý thanh khoản . Khả năng thanh khoản và quản lý thanh khoản được quy định và chặt chẽ rõ ràng trong Thông tư 13 với hai điểm đáng chú ý. Thứ  nhất, yêu cầu các tổ chức tín dụng phải tính toán và quản lý các tỷ lệ về khả năng chi trả hàng ngày. Đây là một thách thức lớn đối với một số ngân hàng và chưa có thói quen làm việc một cách chuyên nghiệp của một số người. Nhưng đây là một điều kiện bắt buộc với bất kỳ một tổ chức tài chính nào nếu muốn trở nên hiện đại. Thứ  hai, quy định về tỷ lệ tối đa nguồn vốn huy động được sử dụng để cấp tín dụng. Tuy vẫn có những tranh cãi và điểm không rõ  ràng khi tính toán và quy định tỷ lệ này, nhưng đây là một trong những giới hạn để một tổ chức tài chính không rơi vào tình trạng mất thanh khoản khi sử dụng vốn quá mức, nhất là  việc sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn và không ổn định (vay liên ngân hàng chẳng hạn) để cho vay hay đầu tư dài hạn. Số liệu của IMF cho thấy các ngân hàng thương mai Việt Nam tuy có nhiều vốn nhưng thực sự rất mong manh trước các cú sốc và hoạt động khá tùy hứng và thường bị cuốn theo vòng xoáy của thị trường. Các chỉ số thanh khoản của các ngân hàng thương mại cổ phần là đáng lo ngại trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Theo số liệu của IMF, những năm trước 2006, “chỉ số cấp tín dụng so với nguồn vốn” của hệ thống ngân hàng thương mại Việt thường đạt 90%. Tuy nhiên những năm gần đây, chỉ số này đã tăng trên 100%. Như vậy, theo lý thuyết cho thấy, các ngân hàng thương mai Việt Nam đã cho vay quá mức và có thể ảnh hưởng đến thanh khoản của ngân hàng. Theo Thông tư 13, đối với các ngân hàng thương mai, tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động giới hạn ở mức 80% (và các tổ chức phi tín dụng là 85%). Tỷ lệ này chắc chắn sẽ tác động đến sự quá tay của các NHTM, nhất là các NHTMCP (về ngắn hạn). Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng về trung hạn điều này chắc chắn làm thay dổi hành vi cấp tín dụng của các NHTM theo hướng tốt hơn trước đây. Ước tính trên phương diện số học thông thường, không tính đến các hiệu ứng gia tăng hay thu hẹp khác như cơ chế số nhân tiền, cho thấy nếu áp dụng Thông tư 13 sẽ kìm khả năng cho vay ra (so với trước đây) của NHTM khoảng 550 tỷ đồng (nếu tăng trưởng huy động và cho vay khoảng 25% so với 2009). Những điểm bất cập của thông tư 13 Việc tăng CAR từ 8% lên 9% (điều 4, thông tư 13) có ảnh hưởng trước tiên đến các NHTM hiện chưa đáp ứng được tỷ lệ này.Để nâng CAR từ 8% lên 9%, ngân hàng phải tăng tử số hoặc giảm mẫu số trong công thức trên, hoặc đồng thời làm được cả hai việc đó.Để tăng được tử số, các ngân hàng có rất nhiều biện pháp, nhưng hai biện pháp mạnh nhất và đem lại hiệu quả nhanh nhất là tăng vốn điều lệ hoặc thoái vốn khỏi các công ty con, tổ chức tín dụng khác. Đây là nguyên nhân góp phần tạo áp lực khiến hàng loạt ngân hàng đã đạt mức vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng như yêu cầu của NHNN phải rục rịch phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn. Cả hai biện pháp này vô hình trung đều đem lại một hệ quả tất yếu, đó là sức ép lên phía cung của TTCK trong khi trước mắt chưa có dấu hiệu nào cho thấy sự xuất hiện của một luồng tiền đủ mạnh đi vào TTCK để “đỡ” lực cung này. Theo khoảng 9, điều 8 của thông tư 13 thì “ Tổng dư nợ cho vay và chiết khấu giấy tờ có giá đối với tất cả khách hàng nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. Đây là quy dịnh rất khó triển khai, trên thực tế, hiện nhiều ngân hàng còn “room” để triển khai tín dụng cầm cố chứng khoán, song trước bối cảnh thị trường hiện nay, nhà đầu tư chưa dám vay vốn để kinh doanh cổ phiếu.do nhu cầu của khách hàng không cao, nên dư nợ tín dụng cầm cố chứng khoán của nhiều ngân hàng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ cho vay cá nhân. tại khoản 7, điều 8 của thông tư 13 thì “ Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho công ty trực thuộc là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chứng khoán.”sẽ là những yếu tố tác động tiêu cực đến tín dụng cầm cố chứng khoán. Nội dung tại điểm a và b khoản 5.6 của Thông tư quy định các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán, cho vay các công ty chứng khoán có hệ số rủi ro bằng 250% đã tác động hạn chế dòng tiền tín dụng chảy vào thị trường chứng khoán, và gây ra tâm lý tiêu cực cho công ty chứng khoán va nhà đầu tư.. Như vậy với quy định về hệ số rủi ro cao đối với các khoản vay ở lĩnh vực chứng khoán, nhất là với khoản vốn cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán, vì Trên thực tế cho vay chứng khoán lại không ẩn chứa nhiều rủi ro như nhiều loại hình tín dụng khác. Vì thế, quy định trên được xem là rào cản mới đối với việc phát triển tín dụng cầm cố chứng khoán thời gian tới, mặc dù vốn điều lệ của nhiều ngân hàng được tăng lên gấp đôi, gấp ba. Quay lại với một trong hai mục đích quan trọng của Thông tư 13 là đảm bảo khả năng thanh khoản của các NHTM, nội dung này được phản ánh rõ nhất tại điều 18 của Thông tư qua tỷ lệ cấp tín dụng. Tỷ lệ cấp tín dụng = Tín dụng/Nguồn vốn huy động Theo quy định tại điều 18, tỷ lệ này phải được duy trì ở mức 80% trở xuống - một tỷ lệ hoàn toàn bình thường mà mọi ngân hàng đều đang phải đáp ứng. Song đáng chú ý ở đây, nguồn vốn huy động sử dụng để cho vay không bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế, Kho bạc Nhà nước, bảo hiểm xã hội và các tổ chức khác, trong khi những nguồn này thường chiếm đến 15% tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng. Như vậy cứ 100 đồng vốn huy động được, ngân hàng chỉ được cho vay khoảng 65 - 70 đồng, phần không được phép cho vay lại là phần có lãi suất rất thấp. Quay lại với một trong hai mục đích quan trọng của Thông tư 13 là đảm bảo khả năng thanh khoản của các NHTM, nội dung này được phản ánh rõ nhất tại điều 18 của Thông tư qua tỷ lệ cấp tín dụng. Tỷ lệ cấp tín dụng = Tín dụng/Nguồn vốn huy động Theo quy định tại điều 18, tỷ lệ này phải được duy trì ở mức 80% trở xuống - một tỷ lệ hoàn toàn bình thường mà mọi ngân hàng đều đang phải đáp ứng. Song đáng chú ý ở đây, nguồn vốn huy động sử dụng để cho vay không bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế, Kho bạc Nhà nước, bảo hiểm xã hội và các tổ chức khác, trong khi những nguồn này thường chiếm đến 15% tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng. Như vậy cứ 100 đồng vốn huy động được, ngân hàng chỉ được cho vay khoảng 65 - 70 đồng, phần không được phép cho vay lại là phần có lãi suất rất thấp. Như vậy, quy định mới về khả năng thanh khoản của các NHTM không những không tạo tiền đề cho việc giảm lãi suất mà thậm chí còn có khả năng góp phần “ủng hộ” việc tăng mặt bằng lãi suất cho vay trong thời gian sắp tới. Cho dù mục tiêu tăng trưởng tín dụng vẫn còn xa, khả năng tăng mặt bằng lãi suất cho vay do đó là không cao, song với sức ép chi phí vốn như thế, mặt bằng lãi suất cũng rất khó giảm. Ngoài ra áp lực từ việc giảm tỷ lệ cho vay dẫn đến chi phí vốn đầu vào tăng lại không thể được bù đắp bằng cách tăng lãi suất đầu ra. Với tỷ trọng khoảng 80% doanh thu của các NHTM hiện nay đến từ mảng tín dụng, tác động thắt chặt từ Thông tư 13 sẽ làm giảm đáng kể tỷ suất lợi nhuận biên của các NHTM, dẫn đến giảm sự hấp dẫn của nhóm cổ phiếu ngành này. Điều 16: Quy định về giới hạn góp vốn mua cổ phần Các quy định trong điều này cũng khá mới so với những quy định trước đó. Trong đó đáng chú ý là quy định đã đặt ra giới hạn của việc tỷ lệ tối đa mà một ngân hàng có thể góp vốn vào một doanh nghiệp là 11%. Như vậy, những ngân hàng đang sở hữu quá tỷ lệ này thì sẽ làm như thế nào? Thực tế, để ngân hàng thoái vốn khỏi các doanh nghiệp sẽ cần một thời gian dài hơn thời hạn Thông tư có hiệu lực. Điều 18: Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động Điều này quy định tỷ lệ cấp tín dụng đối với các ngân hàng không quá 80% vốn huy động. Tuy nhiên, vốn huy động theo quy định này lại không bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế, Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm Xã hội và các tổ chức khác. Như vậy thực tế ngân hàng chỉ có thể cho vay được khoảng 60% vốn huy động, vì có tới 15% - 20% vốn huy động là vốn không thể cho vay theo quy định này. Theo VNBA thì tỷ lệ nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán khoảng 35 đến 40% là tỷ lệ quá cao và không hợp lý. Thông tư 19 1. Những sửa đổi, bổ sung của thông tư 19 cho thông tư 13 Thông tư số 19 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/10/2010 và trong nội dung không có sửa đổi, bổ sung nào liên quan đến thời điểm có hiệu lực của Thông tư 13 ban hành trước đó. Như vậy, khẳng định đầu tiên là: Thông tư số 13 vẫn có hiệu lực từ ngày 1/10/2010. Điểm sửa đổi đầu tiên là trong Khoản 2 Điều 1 Thông tư 13 với một chi tiết nhỏ về các tỷ lệ bảo đảm an toàn quy định tại Thông tư: “Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động” thay cho “Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động”. Điểm 1.1.c và Điểm 1.1.d Khoản 1 Điều 12 (liên quan đến tỷ lệ về khả năng chi trả, trong đó quy định cuối mỗi ngày, tổ chức tín dụng phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ về khả năng chi trả cho ngày hôm sau; điểm sửa đổi liên quan đến việc xác định tổng tài sản “Có” thanh toán ngay) được sửa đổi như sau: “c. Số dư tiền gửi không kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội; d. Số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi có kỳ hạn đến hạn thanh toán gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội;”. Còn tại Thông tư 13, những quy định trên là: “c. Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi không kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội và số dư tiền gửi không kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn của các tổ chức tín dụng khác gửi tại tổ chức tín dụng; d. Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi có kỳ hạn đến hạn thanh toán gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội và số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng có kỳ hạn đến hạn thanh toán của các tổ chức tín dụng khác gửi tại tổ chức tín dụng;”. Một nội dung sửa đổi quan trọng đưa ra trong Thông tư 19 là Mục 5 Thông tư 13 về “Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động”. Tỷ lệ sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng vẫn được giữ nguyên, giới hạn đối với các ngân hàng là 80%, và với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là 85%. Nhưng ở việc xác định nguồn vốn huy động, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh theo hướng không loại trừ tiền gửi của Kho bạc Nhà nước như quy định trong Thông tư 13 (Điểm 3.2 Điều 18). Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động theo sửa đổi tại Thông tư 19 có bổ sung thêm 25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng); không loại trừ tiền vay của tổ chức là Kho bạc Nhà nước và cho phép xác định thêm tiền tiền vay của tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên (trừ tiền vay để bù đắp thiếu hụt tạm thời đối với các tỷ lệ về khả năng chi trả), trong khi Thông tư 13 không cho đưa loại này vào xác định nguồn vốn huy động để cho vay. Ngoài ra, Thông tư 19 có một số điểm sửa đổi cho Thông tư 13 trong Phụ lục 2 về bảng theo dõi tỷ lệ khả năng chi trả. Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung Thông tư 13 đã chính thức có kết quả cuối cùng. Theo nội dung Thông tư 19 với những điểm chính nói trên, những sửa đổi và bổ sung là không nhiều; trong đó chủ yếu là sự ghi nhận cho các tổ chức tín dụng theo hướng mở rộng nhất định nguồn vốn được xác định vào nguồn vốn huy động để cho vay, chủ yếu là phần vốn từ Kho bạc Nhà nước, vốn vay các tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên, hay 25% tiền gửi không kỳ
Luận văn liên quan