Ngày nay, con người phải chịu nhiều sức ép của xã hội phát triển, với những mâu thuẫn ngày càng nhiều giữa sự gia tăng nhu cầu với mức độ thoả mãn chúng, giữa những biến đổi nhanh chóng của xã hội với khả năng thích nghi của cá nhân Không phải lúc nào mọi việc đều diễn ra một cách suôn sẻ, thuận buồm xuôi gió như người ta mong muốn và sắp đặt. Có những tình huống cần những cách giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí, giữa điều kiện và khả năng, giữa mong muốn và kết quả. Những lúc ấy, không ít người không thể quyết định được là họ phải làm gì, giải quyết ra sao, đặc biệt là với những khó khăn về tâm lý. Họ cần được trợ giúp để có thể thích nghi tốt hơn với hoàn cảnh sống của riêng mình.
Là một sinh viên được đào tạo chính quy về tham vấn, chuẩn bị bước vào nghề trong điều kiện tài liệu về tham vấn còn rất ít ỏi, tôi muốn tìm hiểu từ góc độ lý luận những phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn nhằm làm sáng tỏ các cách thức trợ giúp khách hàng đang được tiến hành có hiệu quả bởi các nhà tham vấn ở các nước phát triển. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn” để làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
Tham vấn với tư cách là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn đã ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu cần trợ giúp những vấn đề tâm lý của con người. Tham vấn hiện nay đã rất phát triển trên thế giới nhưng vẫn còn là một ngành nghề khá mới mẻ ở Việt Nam.
Trong mươi năm trở lại đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế do chính sách mở cửa của nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đều được nâng cao. Nhiều trung tâm, dịch vụ tham vấn (ở nước ta thường gọi là tư vấn) đã được thành lập và đi vào hoạt động, mang đến một dịch vụ trợ giúp mới mẻ cho người dân. Tuy nhiên hoạt động của những trung tâm này còn mang giá trị tự phát, chủ yếu phát triển ở các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng Do đó tham vấn chưa được coi là một nghề chuyên môn với những ý nghĩa đích thực của nó.
143 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5526 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu
I. Đặt vấn đề
Ngày nay, con người phải chịu nhiều sức ép của xã hội phát triển, với những mâu thuẫn ngày càng nhiều giữa sự gia tăng nhu cầu với mức độ thoả mãn chúng, giữa những biến đổi nhanh chóng của xã hội với khả năng thích nghi của cá nhân… Không phải lúc nào mọi việc đều diễn ra một cách suôn sẻ, thuận buồm xuôi gió như người ta mong muốn và sắp đặt. Có những tình huống cần những cách giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí, giữa điều kiện và khả năng, giữa mong muốn và kết quả. Những lúc ấy, không ít người không thể quyết định được là họ phải làm gì, giải quyết ra sao, đặc biệt là với những khó khăn về tâm lý. Họ cần được trợ giúp để có thể thích nghi tốt hơn với hoàn cảnh sống của riêng mình.
Là một sinh viên được đào tạo chính quy về tham vấn, chuẩn bị bước vào nghề trong điều kiện tài liệu về tham vấn còn rất ít ỏi, tôi muốn tìm hiểu từ góc độ lý luận những phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn nhằm làm sáng tỏ các cách thức trợ giúp khách hàng đang được tiến hành có hiệu quả bởi các nhà tham vấn ở các nước phát triển. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn” để làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
Tham vấn với tư cách là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn đã ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu cần trợ giúp những vấn đề tâm lý của con người. Tham vấn hiện nay đã rất phát triển trên thế giới nhưng vẫn còn là một ngành nghề khá mới mẻ ở Việt Nam.
Trong mươi năm trở lại đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế do chính sách mở cửa của nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đều được nâng cao. Nhiều trung tâm, dịch vụ tham vấn (ở nước ta thường gọi là tư vấn) đã được thành lập và đi vào hoạt động, mang đến một dịch vụ trợ giúp mới mẻ cho người dân. Tuy nhiên hoạt động của những trung tâm này còn mang giá trị tự phát, chủ yếu phát triển ở các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng… Do đó tham vấn chưa được coi là một nghề chuyên môn với những ý nghĩa đích thực của nó.
II. Quan điểm nghiên cứu của đề tài.
Với tính chất vô cùng quan trọng của nghề tham vấn là trợ giúp thân chủ (những người có vấn đề về tâm lý) thích ứng tốt hơn với hoàn cảnh sống của mình, NTV buộc phải có hiểu biết sâu sắc về nghề nghiệp, phải tuyệt đối tuân thủ những nguyên tắc đạo đức cơ bản của nghề để “không gây hại cho thân chủ”. Thân chủ tìm đến các trung tâm, dịch vụ tham vấn với mong muốn có thể giải quyết những vấn đề của mình. Mỗi người trong số họ lại là một con người vô cùng phong phú, phức tạp với kinh nghiệm, trình độ, lối sống, văn hoá… riêng. Vấn đề của họ cũng muôn hình muôn vẻ. Chính vì vậy, cả NTV và thân chủ cần phải hiểu bản chất của tham vấn, chức năng, nhiệm vụ của các dịch vụ tham vấn, từ đó tạo lập nên một mối quan hệ trợ giúp hiệu quả.Trong đó, cán bộ tham vấn dùng những kỹ năng nghề nghiệp giúp thân chủ hiểu đúng đắn, chính xác vấn đề của mình, nhận thấy những tiềm năng và tự giải quyết chúng, nghĩa là các cán bộ tham vấn đã “giúp thân chủ tự giúp (tự giải quyết) vấn đề của mình (self -help).
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm “Tham vấn là một nghề giúp người khác giúp đỡ chính họ”.
III. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu.
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn.
2. Khách thể nghiên cứu:
- Các tài liệu, sách kèm theo các ca tham vấn điển hình đối với từng phương pháp tiếp cận thân chủ trên thế giới.
- Một số ca tham vấn ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Do những hạn chế về thời gian, đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu tổ hợp các phương pháp tiếp cận tham vấn hiệu quả ở các nước Châu Âu và Mỹ. Đồng thời phân tích 2 ca tham vấn lấy từ báo, trực tiếp từ điện thoại ở Việt Nam.
IV. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Mục đích nghiên cứu:
Phân tích các phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn nhằm chỉ ra một cách có hệ thống các lý thuyết đặc trưng trong từng phương pháp và đánh giá ưu nhược điểm của chúng.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Nghiên cứu lý luận:
- Xác định một số khái niệm cơ bản của tham vấn với tư cách là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn.
- Phân tích các phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn.
- Phân tích một số ca tham vấn dựa trên các phương pháp tiếp cận TC trong tham vấn.
2.2. Kết luận và khuyến nghị.
Kết luận ưu nhược điểm của các phương pháp, đưa ra những khuyến nghị cho việc lựa chọn phương pháp nhằm tạo điều kiện phát triển nghề tham vấn trong tương lai ở Việt Nam.
V. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu duy nhất là thu thập phân tích tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã thu thập, tra cứu và sử dụng một số tài liệu có liên quan, cụ thể là:
- Tài liệu lý luận liên quan đến tham vấn
- Tài liệu sách báo, tạp chí, công trình nghiên cứu về tham vấn.
- Tài liệu về các ca tham vấn từ sách, báo, đài trực tiếp.
Việc nghiên cứu tài liệu đã góp phần làm sáng tỏ lịch sử nghiên cứu của vấn đề, các khái niệm cơ bản của đề tài phục vụ cho phần lý luận và cung cấp những ca tham vấn dùng để làm ví dụ minh hoạ cho phần lý luận.
Phần nội dung
I. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Tham vấn là một chuyên ngành vốn xuất phát từ tâm lý học ứng dụng. Đây là một lĩnh vực mới và có nhiều tiềm năng phát triển. Trong lịch sử ra đời và tồn tại của mình, tham vấn nói riêng và tâm lý học nói chung có rất nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau. Nghiên cứu phương pháp tiếp cận thân chủ của các cán bộ tham vấn là một việc quan trọng và cần thiết đối với ngành khoa học và nghề nghiệp chuyên môn tham vấn nhất là ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Lịch sử phát triển các phương pháp tiếp cận TC trong tham vấn trên thế giới.
1.1. Những tiền đề:
Mặc dù tham vấn là ngành khoa học mới được chính thức ra đời từ thế kỷ XX nhưng những tiền đề của nó đã xuất hiện từ rất xa xưa.
Trong phần nghiên cứu lịch sử tham vấn( chủ yếu về các phương pháp tiếp cận TC), chúng tôi dựa vào chương II cuốn sách “Thế giới của những nhà tham vấn” (The world of the counselors) nguyên bản tiếng Anh của tiến sĩ tham vấn người Mỹ E.D.Neukrug, do Công ty xuất bản Brooks/Cole Mỹ (1999) và bổ sung thêm vào phần II cuốn sách Công tác tham vấn trẻ em của Kathryn Geldard và David Geldard (do Nguyễn Xuân Nghĩa và Lê Lộc dịch, NXB ĐH Mở Thành phố Hồ Chí Minh). Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo một số tài liệu có liên quan đến tham vấn như Tâm lý trị liệu, TLH xã hội, TLH phát triển…
Con người ngay từ thời nguyên thuỷ đã có nhu cầu giao tiếp, bộc lộ những tâm tư tình cảm của mình. Nhu cầu đó cùng với sự phát triển của xã hội đã thúc đẩy sự ra đời của những người làm công tác tham vấn. Có thể coi: “những nhà tham vấn đầu tiên là những người lãnh đạo cộng đồng, họ cố gắng đem lại nguồn cảm hứng, nâng đỡ tinh thần cho những người khác thông qua việc giảng dạy của họ. Họ là những người sáng lập ra các tôn giáo như Moses (năm 100 trước công nguyên). Buddha (Phật – năm 500 trước công nguyên) và Mohammed (năm 600). Họ là những nhà triết học như Lão Tử (Năm 600 trước công nguyên); Khổng Tử (năm 500 trước công nguyên); Aristole (350 trước công nguyên) {35, 25}. Họ là những người đặt nền móng về tư tưởng cho sự ra đời của tâm lý học nói chung và tham vấn nói riêng về sau.
Nói đến sự ra đời của tham vấn không thể không nói đến vai trò của các ngành hỗ trợ cho nó như công tác xã hội, tâm lý học, tâm thần học. Lịch sử của các ngành này có ý nghĩa quyết định đến tham vấn.
Công tác xã hội là một nghề nảy sinh từ những năm 1500, xuất phát từ việc giúp đỡ người nghèo và những người khốn cùng ở Mỹ, Anh. Công tác xã hội nhấn mạnh sự thấu hiểu, đã cung cấp cho NTV một cách hiểu các cá nhân từ trong gia đình và trong các lĩnh vực xã hội. NTV gia đình đầu tiên đã bắt đầu công việc là nhân viên công tác xã hội. Những nhà tham vấn phải học cách thể hiện sự chấp nhận của họ đối với thân chủ thông qua hoạt động thực tế của công tác xã hội. Công tác xã hội đã gợi ý cho những nhà tham vấn về sự khác biệt của các thân chủ về văn hoá, trình độ phát triển xã hội nơi họ sống và luôn nhắc nhở các nhà tham vấn phải tiếp tục phục vụ cho thân chủ dựa trên những chuẩn mực của địa phương, bang và quốc gia.
Tâm lý học có ảnh hướng lớn cả về chiều rộng và độ sâu đến tham vấn. ý tưởng của ngành tham vấn hiện đại đã có từ rất lâu, thể hiện trong quan điểm của những nhà triết học cổ tại phương Tây.
Plato (427 – 347 trước công nguyên) đã đưa ra quan điểm giống như quan điểm tham vấn hiện đại: “Sự tự xem xét nội tâm và sự phản ánh là con đường dẫn tới tri thức và sự hiểu biết hiện thực. Những giấc mơ và những hình ảnh tưởng tượng là sự thoả mãn thay thế. Những vấn đề nảy sinh của con người là do những yếu tố vật lý tâm lý, tinh thần gây ra.” [40]
Nhà triết học duy tâm lỗi lạc cổ Hy Lạp Socrate (469 –399 trước công nguyên) với châm ngôn “hãy tự biết mình” đã đặt vấn đề tự nhận thức bản thân lên vị trí cao nhất. Ông quan niệm tự nhận thức bắt đầu từ chỗ con người nghi ngờ sự hiểu biết của bản thân: “Tôi biết là tôi chẳng biết gì cả”{9, 15}. Cái “chẳng biết gì” của Socrate là nguồn gốc của “cái biết”. Socrate còn nổi tiếng với việc xây dựng phương pháp trò chuyện: dùng trò chuyện tay đôi hai người tranh luận với nhau mà tìm ra chân lý. Phương pháp này ảnh hưởng nhiều đến các phương pháp tham vấn cho thân chủ. Điều lý thú của phương pháp trò chuyện của Socrate là đưa người học đến chỗ tự mình phát hiện được cái mình chưa biết và tự đi đến cái cần biết. Và trong tham vấn, NTV cũng giúp TC tự hiểu và tự tìm ra cách giải quyết tốt nhất với vấn đề của mình.
Thế kỷ XIX đánh dấu sự phát triển vượt bậc và nhanh chóng của tâm lý học. Cùng với sự phát triển của các phòng thực nghiệm tâm lý, là sự phát triển của các trắc nghiệm tâm lý – giáo dục cuối thế kỷ XIX. Alfred Binet (1857 – 1911) đã phát triển trắc nghiệm trí tuệ cá nhân đầu tiên được Bộ giáo dục Pháp sử dụng để phân biệt trẻ bình thường và không bình thường. Đầu thế kỷ XX, trắc nghiệm khả năng (năng lực) nhân cách lần lượt ra đời và có ứng dụng rộng dãi trong việc nhận xét đánh giá cá nhân. Các trắc nghiệm tâm lý này đã giúp cho NTV có công cụ hiểu hơn về TC một cách khách quan.
Thời gian này cũng đánh dấu sự ra đời và phát triển của phân tâm học, hệ thống tâm lý trị liệu toàn diện đầu tiên đánh giá nguồn gốc tâm lý của hành vi. Sigmund Freud (1856 – 1939) là người sáng lập ra phân tâm học chịu ảnh hưởng rất lớn của các cá nhân như Anton Mesmer (1734 – 1851) và Jean Martin Charcot (1825 – 1893) những người điều trị bệnh tâm trí theo một phương pháp mới: thôi miên. Những nhà thôi miên tiên phong này đã chứng minh rằng sự ám thị có thể tác động mạnh mẽ đến trạng thái tâm lý của các cá nhân. Nhận thấy thôi miên đem lại hiệu quả nhất định cho người bệnh, Freud và những cộng sự cũng đã dùng thôi miên như một công cụ quan trọng để giải toả những ấn tượng sâu sắc và những ký ức đau buồn của bệnh nhân tâm thần. Tuy nhiên, sau một thời gian, cũng đã phát hiện ra rằng “việc chữa trị bằng thôi miên cũng đem lại những kết quả rất hạn chế, không triệt để, chỉ có tính chất tạm thời vì nó chỉ đánh vào triệu chứng bên ngoài mà không đụng chạm đến cái nguồn gốc sâu xa làm phát sinh ra bệnh” {14,11}. Do đó ông từ bỏ phương pháp chữa trị bằng môn thôi miên và thay thế bằng phương pháp mới, đặt tên là “tự do liên tưởng”.
Học thuyết của Freud nhằm tìm hiểu nguồn gốc của hành vi con người xuất phát từ những khám phá của ông về các quá trình vô thức và của các cơ chế phòng vệ được những người lớn có những xáo trộn xúc cảm sử dụng nhằm tự che chở cho bản thân trước những kinh nhiệm đau buồn và hoặc không chịu nổi mà họ không đủ sức đối phó. Ngoài ra Freud còn đưa ra những ý kiến có tính khái niệm về sự hình thành nhân cách (các quan niệm về bản năng, xung động, bản ngã và siêu ngã; nhân cách; về sự phát triển tâm lý tình dục) {30,46}
Quan điểm mới của Freud trong lĩnh vực sức khoẻ tâm thần và bệnh tâm thần là một cuộc cách mạng và tiếp tục ảnh hưởng một cách sâu sắc đến cách thức mà chúng ta tiếp cận vấn đề của thân chủ. Mặc dù được đào tạo là một bác sỹ nhưng những quan điểm nêu trên của ông nhanh chóng được chấp nhận trong tâm lý học và đưa Freud trở thành một trong những nhà tâm lý học lỗi lạc nhất thế giới.
Bên cạnh phân tâm học truyền thống của Freud, cuối thế kỷ XIX xuất hiện một trường phái tâm lý học khác đó là trường phái TLH hành vi. Trường phái này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự đánh giá, đi sâu nghiên cứu “kích thích – phản ứng” do nhà sinh lý học Nga Anton Pavlov (1849 – 1936) dẫn đầu và những ảnh hưởng của môi trường đối với tâm lý của con người. Cùng thời gian này, TLH hiện tượng, TLH hiện sinh, TLH cấu trúc (Gestalt) cũng bắt đầu phát triển. Tất cả các trường phái tâm lý nêu trên đều có ảnh hưởng đến phương pháp tiếp cận TC của các NTV sau này.
Nhìn chung, TLH đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp ra đời và phát triển của ngành, nghề tham vấn không chỉ với những tri thức nền tảng cơ bản mà còn với các trắc nghiệm trợ giúp đánh giá vấn đề của TC, các phương pháp tiếp cận TC chủ yếu… Có thể khẳng định tâm lý học thực sự là “người anh cả của tham vấn”. {40,29}.
Sẽ thật thiếu sót nếu chúng ta bỏ qua vai trò của chuyên ngành tâm thần học. Cho đến cuối những năm 1700 bệnh tâm thần vẫn được coi là bí ẩn, ma quỷ và nhìn chung là không thể chữa trị được. Tại Pháp, Philippe Pinel (1745 – 1826) được coi là người sáng lập ra ngành tâm thần học khoa học với những nỗ lực chữa trị cho bệnh nhân tâm thần bằng những phương pháp nhân đạo, không cách ly họ ra khỏi cộng đồng. Những năm 1800 đánh dấu những thành tựu to lớn trong nhận thức, chẩn đoán và điều trị bệnh tâm trí. Emil Kraepelin (1855 – 1926) đã phát triển một trong những bảng phân loại bệnh tâm trí đầu tiên trên thế giới. Jean Martin Charcot (1825 – 1893) và Piese Janet (1859 – 1974) đồng thời phát hiện ra mối quan hệ hữu cơ giữa trạng thái tâm lý và những rối nhiễu hành vi. ở Mỹ, tác giả Benjamin Rush (1743 – 1813) , nhà vật lý học được coi là người sáng lập ra ngành tâm thần học Mỹ, đã vận động cho việc áp dụng những biện pháp chữa trị nhân đạo cho người nghèo và những người mắc bệnh tâm trí.
Như vậy, ngành tâm thần học với những thành tựu trong chẩn đoán về những trạng thái rối loạn tâm thần đã giúp cho các nhà tham vấn phân biệt sự khác biệt của các bệnh tâm trí khác nhau thuộc lĩnh vực sức khoẻ tâm thần, từ đó định ra những lĩnh vực mà họ có thể cộng tác cùng điều trị với các nhà tâm thần học. Các bảng phân loại bệnh tâm trí của tâm thần học giúp cho các NTV và những nhà chuyên môn khác trong việc chẩn đoán và phát triển kế hoạch trị liệu cho TC. Ngoài ra, căn cứ vào bảng phân loại này, NTV còn xác định được những TC nào cần được chuyển đến những chuyên gia tâm thần học hoặc thần kinh học để được chữa trị.
1.2. Sự ra đời và phát triển của tham vấn.
Sau khi xem xét lịch sử của các chuyên ngành hỗ trợ tham vấn chúng ta bắt đầu đi sâu tìm hiểu lịch sử của Tham vấn, bởi vì lịch sử phát triển của ngành tham vấn gắn với sự ra đời của các phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn.
Tham vấn là một ngành nghề đại diện cho sự hợp nhất lại của nhiều ảnh hưởng như phong trào đấu tranh để có được những biện pháp điều trị nhân đạo cho bệnh nhân tâm thần từ thế kỷ XIX ở Pháp, phân tâm học- Freud; những khảo cứu khoa học và phương pháp tiếp cận hành vi; chất lượng khoa học các trắc nghiệm tâm lý; tâm lý học hiện sinh; tâm lý học nhân văn và những thành tựu rõ ràng của lĩnh vực hướng dẫn tư vấn nghề.
Tham vấn được ra đời và phát triển theo các giai đoạn sau {30}
- Từ 1900 đến 1950: Những tiền đề cho sự ra đời của ngành, nghề tham vấn.
Tiền đề đầu tiên phải kể đến là sự phát triển của công tác hướng dẫn tư vấn nghề và sự ra đời của những NTV nghề đầu tiên.
Từ đầu thế kỷ XX, công tác xã hội đã mang lại quan tâm và những thay đổi trong công tác giáo dục; tâm thần học làm biến đổi về chất các phương pháp chữa trị cho bệnh nhân tâm thần; phân tâm học và những liệu pháp liên quan được ứng dụng rộng rãi; hiệu quả của các trắc nghiệm và cuộc cách mạng công nghiệp đối với sự phát triển xã hội nâng cao vật chất tinh thần cho con người. Nhìn một cách tinh tế, mỗi một sự kiện này đều ảnh hưởng đến công tác hướng dẫn tư vấn nghề và sự ra đời của tham vấn.
Frank Parsons (1854 – 1908), người sáng lập ra ngành hướng dẫn tư vấn nghề ở Mỹ. Bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một nhân viên công tác xã hội ở Boston, được sự hậu thuẫn của những quan chức lãnh đạo cộng đồng ở đây, đã xuất bản cuốn sách “Cẩm nang hướng nghiệp” (Vocational Bureau) nhằm trợ giúp các cá nhân trong việc lựa chọn nghề nghiệp, tìm ra cách bắt đầu và xây dựng một nghề nghiệp thành công và hiệu quả” {40,33} . Ông thực sự mong muốn công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp được đưa vào trường học.
Năm 1909, sau khi ông qua đời một năm, cuốn sách “chọn nghề” (Choosing a Vocation) được xuất bản và ngay lập tức nó được coi là sự cống hiến lớn lao cho công tác hướng dẫn tư vấn nghề. Boston trở thành địa điểm tổ chức Hội nghị công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp đầu tiên. kết quả của hội nghị này đánh dấu sự ra đời của Hiệp hội tư vấn hướng nghiệp quốc gia Mỹ (NVGA) năm 1913, tổ chức tiền nhiệm của Hiệp hội tham vấn Mỹ sau này. Frank Parsons là người có tầm nhìn xa. Ông đã hình dung ra công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp có hệ thống trong trường học, hình dung ra sự phát triển của công tác này trong nước. Ông cũng thấy trước được tầm quan trọng của công tác tham vấn cá nhân và ông đã hi vọng có một xã hội trong đó sự hợp tác quan trọng hơn sự cạnh tranh. Nguyên tắc của Parsons trong công tác hướng dẫn tư vấn nghề đã ảnh hưởng sâu sắc đến những lĩnh vực rộng lớn hơn của công tác tham vấn. Mục đích chính của Parsons đối với công tác hướng dẫn tư vấn nghề luôn được thể hiện trong “3 quá trình”sau:
Một là: sự thấu hiểu một cách rõ ràng về bản thân, về khả năng, sở thích hoài bão, nguồn lực cũng như những hạn chế của bạn đối với nghề; động lực thúc đẩy bạn chọn nghề.
Hai là: kiến thức về những yêu cầu, điều kiện của thành công, những thuận lợi và khó khăn; sự đền bù; những cơ hội và những triển vọng phát triển trong các giới hạn khác nhau của công việc
Ba là: nguyên nhân thực sự trong mối liên hệ của hai nhóm trong thực tế”. {37,33}
Tuy nhiên, những xem xét sâu sắc, tỉ mỉ của Parson trong công việc của ông đã chỉ ra cho chúng ta thấy nhiều điểm trong các nguyên tắc này thực sự trở thành nguyên lý của nghề Tham vấn. Ví dụ, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải có một người hướng dẫn chuyên nghiệp và gợi ý rằng một người hướng dẫn tốt không thể đưa ra các quyết định cho người khác, những người mà một cách cơ bản phải quyết định điều gì tốt nhất cho anh ta hoặc cô ta. Ông cũng cho rằng một NTV nên thân tình, cởi mở, trung thực và tốt bụng với TC. Điều đó có ý nghĩa quyết định đối với các NTV trong sự nỗ lực giúp đỡ TC phát triển những tiềm năng riêng của họ. Với những tư tưởng nêu trên, Parsons không những xứng đáng với danh hiệu là người sáng lập ra công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp mà còn xứng đáng với danh hiệu người sáng lập của tham vấn.
Sau này, mặc dù công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp trong trường học được phát triển, song nhiều người đã tán thành việc cần có một cách tiếp cận rộng hơn với tham vấn trong trường học. Những người này cho rằng những chuyên gia tư vấn hướng nghiệp không nên chỉ tập trung quan tâm về ngành nghề mà còn nên chú ý đến sự khác biệt lớn trong những nhu cầu về tâm lý và giáo dục của học sinh. Nói cách khác những chuyên gia tư vấn hướng nghiệp phải là những NTV.
Công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp tồn tại và phát triển được nhờ sự trợ giúp của các trắc nghiệm về khả năng nhận thức, hứng thú, trí thông minh, nhân cách… Những trắc nghiệm này càng được chuẩn hoá và hoàn thiện, đóng góp một cách tích cực cho tất cả các loại hình thực hành tham vấn. Sự mở rộng phạm vi ảnh hưởng của ngành tâm lý trị liệu cùng với nỗ lực đấu tranh cho những hình thức chữa trị nhân đạo đối với bệnh nhân tâm thần, những bệnh viện điều trị tâm thần được xây dựng khiến cho nhu cầu cần người trợ giúp được đào tạo, chuyên nghiệp cũng g